Theo
truyền thống Phật giáo Theravāda, Vesak là lễ kỷ niệm ba sự kiện trọng đại gắn
liền với cuộc đời Đức Phật: ngày Đức Phật Đản sinh, ngày Đức Phật Thành đạo, và
ngày Đức Phật nhập Niết-bàn.
Chính vì kết hợp ba sự kiện quan trọng này nên
lễ Vesak cũng được gọi là lễ Tam hợp. Tưởng niệm ngày Tam hợp, cũng là dịp nhắc
nhở chúng ta về những lời dạy của bậc Đạo sư. Đối với người Phật tử, đón mừng
Phật đản và tri ân Phật không gì có ý nghĩa hơn là áp dụng lời dạy, lời di huấn
của Ngài vào trong đời sống tu học và hành đạo. Nhân mùa Phật đản Phật lịch
2557, NSGN trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết của tác giả Hoằng Quảng,
xoay quanh sự kiện Đức Phật nhập diệt và những di huấn tha thiết sau cùng của Ngài,
đối với hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia.
Đức Phật là bậc tự chủ hoàn toàn chuyện sống,
chết. Việc muốn sống bao lâu hoặc ra đi vào thời điểm nào, Đức Phật đều có thể
tự mình quyết định. Đó là sự thực được ghi nhận khi Đức Phật báo trước cho môn
đệ và cả những thế lực chống đối về thời điểm Ngài sẽ viên tịch. Hơn đâu hết,
với chân lý mà Ngài đã giác ngộ: Không có cái gì sinh mà không già, không chết,
thì việc từ bỏ xác thân tứ đại cũng là một cách khẳng định và làm rõ thêm, về
những quy luật căn bản mà Đức Phật đã dày công khám phá.
Có thể nói, kể từ thời điểm Ngài tuyên bố: Sau
ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, hôm nay tại điện
thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng
sống lâu hơn nữa), thì còn rất nhiều việc mà Đức
Phật đã nghiêm cẩn chuẩn bị
cho cuộc trở về vĩ đại của mình.
Qua việc khảo sát kinh Đại bát Niết-bàn, các
bản kinh liên quan và các dịch phẩm tương đương trong Hán tạng, đã phát lộ
những chi tiết quan trọng về việc Đức Phật đã chuẩn bị cho sự kiện Đại diệt độ.
Trong số những chi tiết theo kinh văn, người viết chỉ tập trung vào bốn trọng
tâm chính. Thứ nhất, kiện toàn tổ chức Tăng-già; thứ hai xác tín Kinh, Luật làm
kim chỉ nam; thứ ba hiện thân cho lý tưởng phụng sự và cuối cùng là chỉ định cư
sĩ phụ trách tang nghi.
Kiện toàn tổ chức Tăng-già
Sau những góp ý dành cho Bà-la-môn Vassakara,
đại thần nước Magadha, liên quan đến những giải pháp dành cho việc trị an quốc
gia, thuật ngữ thường gọi là bảy pháp bất thối; nhân đó, Đức Phật đã thể hiện
sự quan tâm sâu sát đến sự tồn tại và phát triển vững chãi của đoàn thể
Tăng-già.
Ngài đã cho Tôn giả Ananda triệu tập Tăng
chúng ở gần Rajagaha và chỉ dạy về những nguyên tắc cơ bản cho một sự ổn định
và phát triển bền vững của tổ chức đoàn thể xuất gia. Theo thống kê, chỉ trong
tụng phẩm thứ nhất của kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật đã liệt kê có tới 35
pháp bất thối và sáu nguyên tắc căn bản cho sự hòa hợp của đoàn thể Tăng.
Trong 35 pháp bất thối và sáu nguyên tắc sống
chung liên quan thâm thiết đến bản thể sinh mệnh của Tăng-già. Theo Đức Phật,
bản thể sinh mệnh của Tăng-già là nội chứng, là thiền định, là giới luật. Sống
tuân thủ theo học giới, tu tập Tứ niệm xứ, Thất giác chi, quán lý vô thường, vô
ngã, bất tịnh và hư giả,… thì đoàn thể Tăng-già sẽ vững chãi về sinh mệnh. Nói
cụ thể, nỗ lực chuyển hóa tự thân theo những phương thức mà Đức Phật đã chỉ dạy,
là điều kiện căn bản nhằm góp phần vào việc kiện toàn tổ chức Tăng-già.
Bên cạnh đó, sức mạnh của Tăng chính là sức
mạnh tổng hợp của các cá nhân sống trong đoàn thể. Muốn có được sức mạnh đó,
cần phải tôn trọng những nguyên tắc sống chung. Sự cung kính, tôn trọng các bậc
cao niên lạp trưởng, biết tàm, biết quý, không tụ họp và phiếm luận vô bổ, giữ
gìn sáu phép hòa kính, sống với nhau hòa hợp như nước với sữa… là những nguyên
tắc và chuẩn mực làm cho đoàn thể Tăng-già phát triển vững mạnh.
Sự quan tâm đến việc sống chung và những chuẩn
mực ứng xử giữa các Tỳ-kheo như danh xưng, hình thức giao tiếp giữa người nhỏ
với người lớn và ngược lại cũng được Đức
Phật dạy bảo hết mực
chi tiết. Không dừng lại ở đó, Đức Phật đã có những quan tâm với những cá thể
đặc thù trong tổ chức Tăng-già. Việc tìm cách chuyển hóa Tỳ-kheo Channa phạm
lỗi vào thời khắc cuối của đời sống, là một minh chứng sống động của Đức Phật,
đối với sự ổn định, đoàn kết và phát triển của Tăng chúng.
Từ hiện thực các chúng đệ tử của giáo phái
Nigantha Nathaputta không biết tôn trọng lẫn nhau, đấu tranh và tàn hại lẫn
nhau sau khi giáo chủ viên tịch ở Pava, cách Kusinagar khoảng 15km về phía
Đông, được ghi lại trong kinh Phúng tụng, kinh Thanh tịnh, đã làm cho vấn đề
kiện toàn tổ chức Tăng-già trở thành một trong những vấn đề quan trọng và bức
thiết. Bảy pháp bất thối được liên tục triển khai trên năm phương diện, cộng
với sáu phép hòa kính, là một trong những cơ sở biện minh cho quan điểm này.
Xác tín Kinh, Luật làm kim chỉ nam
Sau khi Đức Phật diệt độ, thì Tăng chúng phải
nương tựa vào ai và ai là người lãnh đạo Tăng-già? Đây không những là băn khoăn
của riêng ngài Ananda mà dường như của hầu hết những đệ tử Phật. Đức Phật đã
xóa tan nghi vấn đó bằng sự khẳng định mạnh mẽ: Này Ananda, hãy tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì
khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ
nương tựa một gì khác. Không những thế, trong những lời cuối cùng, Đức Phật đã
trở lại sự khẳng định này: Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình
bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là đạo sư của các ngươi.
Lời dạy của Đức Phật đã rất mực rõ ràng khi
xác tín giáo pháp là kim chỉ nam, là chỗ y cứ cho mọi phương châm và hành động
của chúng đệ tử Phật về sau. Thế nhưng, một thực tế được đặt ra là ở thời Phật,
kinh điển chưa được ghi lại bằng văn bản, thế nên dễ xảy ra tình trạng bất cập
về nội dung. Ở đây, vấn đề làm cách nào để xác tín những lời dạy hoặc truyền
tụng do chính Đức Phật thuyết, cũng là một vấn đề quan trọng, được Đức Phật
thuận thứ chỉ bày.
Theo Đức Phật, cơ sở để phân biệt đâu là lời
dạy chân thực của Đức Phật cần phải tham chiếu vào hai yếu tố, đó là Kinh và
Luật.
Theo kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật đã dẫn ra
bốn trường hợp liên quan đến việc xác tín tính chân thực của kinh văn. Trong
tất cả bốn trường hợp, dù tự nhận rằng chính bản thân được nghe từ kim khẩu của
Đức Thế Tôn hoặc được nghe từ chính một vị Tỳ-kheo hay nhiều vị Thượng tọa có
thẩm quyền về kinh điển… thì cũng không nên vội vã khẳng định rằng, đó là kinh
văn do Phật thuyết. Theo Đức Phật, cần phải dựa vào Kinh và Luật mới có thể
minh định đó có phải là lời dạy của Đức Phật hay không. Đây cũng là ưu tư mà trước
đó Đức Phật đã dạy cho dân chúng Kalama trong bài kinh Các vị ở Kesaputta.
Cùng liên quan đến việc kiện toàn cơ sở Kinh,
Luật, do vì bị đau lưng nên Đức Phật chỉ định Tôn giả Sariputta thay Ngài tóm
tắt lại những điểm chính của giáo pháp. Đáng chú ý, trước khi bắt đầu bài pháp,
Tôn giả Sariputta cũng dẫn lại câu chuyện về sự tranh cãi của môn đệ sau khi
Giáo chủ Nigantha Nathaputta từ trần. Sự cấp thiết của vấn đề đã được Tôn giả
Sariputta trình bày thống thiết: Này các Hiền giả, pháp này được Thế Tôn khéo
giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an
tịnh, do vị Chánh đẳng giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng
nhau tụng đọc, không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy
trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Có một điều đáng lưu ý, vì trước đó khá lâu,
trong đô thị Campa, Tôn giả Sariputta đã thuyết cho chúng Tỳ-kheo bài thuyết
giảng với mười pháp số tương tự qua bài kinh Thập thượng. Trong lần này, với
những nội dung căn bản, sâu sắc, cô động, bài thuyết giảng của Tôn giả
Sariputta có thể được xem là cuộc kiết tập kinh điển đầu tiên khi Phật còn tại
thế.
Hiện thân cho lý tưởng phụng sự
Kể từ khi chứng đạo, Đức Phật đã dành trọn
thời gian còn lại của đời mình chỉ với một mục đích duy nhất: giáo hóa chúng
sanh nhận ra chân lý mà Ngài đã giác ngộ. Xúc động hơn cả, trong những chặng
cuối và đêm cuối của hành trình, bàng bạc trên mỗi dấu chân của Ngài vẫn chất
ngất chí nguyện độ sanh.
Trong câu chuyện về bữa cơm cuối cùng ở Pava
do chàng thợ rèn Cunda hiến cúng, là khúc ca bi tráng về chí nguyện độ sanh của
Đức Thế Tôn. Theo kinh văn, Cunda cúng dường Đức Thế Tôn một bữa cơm với thức
ăn tinh túy và tốt nhất trong điều kiện khả dĩ của mình. Kinh Trường bộ ghi
rằng, đó là món Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ). Điều cực kỳ bất hạnh là bữa
ăn đó không phù hợp với thể trạng hiện tại của Đức Thế Tôn, nói chính xác hơn
là thức ăn vô tình bị nhiễm độc, nhưng Cunda không nhận ra. Với lòng chí thành
của Cunda, Đức Thế Tôn hoan hỷ thọ dụng, và để phòng hộ cho mọi người, Đức Phật
đã nhỏ nhẹ bảo Cunda chôn ngay món ăn mộc nhĩ còn lại, vì không một ai ở cõi
Trời, cõi Người, ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng
Sa-môn và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể
tiêu hóa được, trừ Như Lai.
Cần phải thấy, với luận điểm: các Đức Như Lai
nhập Vô dư Niết-bàn không có sự hãm hại, do vậy, mọi sự tác động của các yếu tố
bên ngoài đều không ảnh hưởng đến thọ mạng của Đức Thế Tôn. Mặc dù vậy, với
trách nhiệm của một bậc Thầy tối thượng, Đức Phật e rằng, sau khi Ngài viên
tịch, thợ rèn Cunda sẽ mãi hối hận về bữa cơm cúng dường, xem đó là một trong
những nguyên do làm cho Thế Tôn sớm viên tịch, nên Ngài đã căn dặn Tôn giả
Anan: Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả
báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là
bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hai là bữa ăn
trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn
này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự
cúng dường ăn uống khác.
Có thể nói, mặc dù biết rõ thức ăn có độc, thế
nhưng vì muốn lợi lạc hữu tình, cụ thể là đem lại phước quả lớn cho thợ rèn
Cunda, Đức Thế Tôn đã không ngại ngần thọ dụng bữa ăn cuối. Hình ảnh bữa ăn
cuối cùng của Đức Phật có nhiều nét tương đồng như ly thuốc độc mà nhà hiền triết
Socrate (469-399) đã ung dung uống cạn, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh
phúc cho con người và mọi loài.
Cũng trong đêm trước khi Đại diệt độ, với lòng
chí thành của du sĩ ngoại đạo Subhadda, Đức Phật đã cho thuận thứ thuyết giảng,
ông ta đã phát nguyện xuất gia, thọ cụ túc giới và không bao lâu, đắc quả
A-la-hán. Sự hóa độ du sĩ Subhadda trong đêm Đại diệt độ, Đức Thế Tôn đã hiện
thân cho lý tưởng độ sanh không mệt mỏi, dù đó là phút cuối của đời mình.
Chỉ định cư sĩ đảm trách tang nghi
Với Đức Phật, thân thể chỉ là sự hòa hợp của
tứ đại. Sau khi Đức Phật nhập Vô dư Niết-bàn thì thân tứ đại dù được kết tinh
thành xá-lợi thì cũng theo quy luật tụ, tán cùng thời gian. Do đó, Ngài đã chọn
phương thức hỏa táng và chỉ định cho hàng cư sĩ phụ trách tang nghi.
Trước trăn trở của ngài Ananda về hình thức
tang nghi và ai là người đứng ra chủ trì sự kiện quan trọng này, Đức Phật đã
trang nghiêm phân định: Này Ananda, các ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính
thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng
về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có
những học giả Sát-đế-lỵ, những học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm
tín Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như
Lai.
Đây là di huấn quan trọng, có ý nghĩa tham
khảo đối với mọi vấn đề liên quan đến việc hậu sự của người xuất gia, bất kể
thời đại nào. Mặc dù có mặt trong khoảng thời gian diễn ra tang lễ, thế nhưng
cả ba đại đệ tử của Đức Phật như Tôn giả Maha Kassapa, Tôn giả Anurudha và Tôn
giả Ananda vẫn đứng ngoài mọi diễn biến tang lễ. Nếu có đóng góp chăng, thì chỉ
riêng Tôn giả Maha Kassapa châm lửa vào đài hỏa táng kim thân của Đức Từ Phụ.
Ngay sau khi Đức Phật vừa diệt độ, trong phần đêm còn lại, ngồi hầu bên di thể
của Đức Thế Tôn, Tôn giả Ananda và Anurudha an tịnh bàn luận Chánh pháp và chờ
trời sáng, để vào thành Kusinara thông báo cho dân chúng Mala.
Sau khi được Tôn giả Ananda thông báo, các vị
cư sĩ ở Mala đã đứng ra lo tang lễ của Đức Phật và họ đã làm những gì cần làm
theo di huấn. Đặc biệt, vị cư sĩ tại gia có ảnh hưởng quyết định trong tang lễ
của Đức Phật là Bà-la-môn Dona. Chính bản thân vị Bà-la-môn này đã ngăn ngừa
một cuộc xung đột giữa tám nước, khi các nước muốn phụng thỉnh một phần xá-lợi
của Đức Thế Tôn về xây tháp tôn thờ. Một vị Bà-la-môn, không phải là người xuất
gia, đứng ra phân chia xá-lợi của Đức Phật và có khả năng thuyết phục cả tám
nước, thì tất có một nhân thân vững chãi, đặc thù.
Đọc kỹ lại kinh văn, nhân thân của Bà-la-môn
Dona hiện rõ dần. Trước hết, đó là vị Bà-la-môn phát hiện dấu chân rất lạ và
dõi theo chúng, để cuối cùng diện kiến Đức Phật trên con đường giữa Ukkatthà và
Setabbya. Từ cuộc hội kiến, Bà-la-môn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác
và cuối cùng nhận ra người đang đàm thoại chính là một vị Phật. Từ nhân duyên
gặp Phật ban đầu, Bà-la-môn Dona từng bước hâm mộ Phật pháp. Trong cuộc tham
vấn về năm hạng Bà-la-môn, ngài Dona đã xin quy y với Đức Thế Tôn và chính thức
trở thành một vị cư sĩ tại gia thâm tín Tam bảo(20). Được biết, đã có một bảo
tháp được xây dựng để tôn thờ cái bát mà Bà-la-môn Dona dùng để phân chia
xá-lợi Đức Phật. Ngài Huyền Trang có xác nhận trong nhật ký của mình và theo
ngành du lịch Ấn Độ, bảo tháp này vẫn hiện còn tại một địa điểm gần Kusinara.
Như vậy, mặc dù tang nghi Đức Phật chỉ định do
hàng cư sĩ phụ trách, thế nhưng, căn cứ vào tư liệu kinh văn đã xác tín, đó là
hạng cư sĩ vững chãi, thâm tín Tam bảo, mới đủ phước, đủ duyên thực hiện thiện
hạnh rất mực quan trọng này.
Thay lời kết hay vài suy nghĩ về hậu sự của
người xuất gia
Trong thời Đức Phật, các vị xuất gia lấy việc
tu tập, thú hướng giải thoát, xem đó là việc chính yếu và không quá chú trọng
về các thể thức tang nghi. Theo kinh điển ghi lại, đã có vài vị Tỳ-kheo bị rơi
xuống núi tử nạn, bị rắn cắn chết, bị mạng vong do bệnh tật và tang lễ được tổ
chức rất mực giản đơn. Ngay như cao đệ của Đức Phật là Tôn giả Sariputta, tang
lễ của ngài diễn ra đơn giản, chỉ có vài vị xuất gia bên cạnh và sau đó, Sa-di
Cunda hỏa thiêu xác thân, thu lấy xá lợi bỏ vào bình bát và trở về cáo bạch
cùng Đức Thế Tôn.
Học theo sự giản đơn về tang nghi của tiền
nhân, trong di ngôn của Huyền Tráng, ngài mong muốn chỉ được bó chiếu chôn. Gần
hơn, Pháp sư Thánh Nghiêm cũng chọn hỏa táng và tro cốt còn lại đem rải trong
rừng cho cây cối tốt tươi. Ở Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, cũng có nhiều
bậc cao tăng thể hiện sự giản đơn nhất định, trong việc lo hậu sự của mình.
Đành rằng, tùy theo không gian văn hóa mà ở
mỗi quốc gia, khu vực có những cách thức xử lý đối với di thể người đã khuất.
Trong những táng thức đặc thù của từng khu vực, thì riêng đối với người xuất
gia, việc gia tăng sự tu tập của bản thân, hầu lấy đó làm công đức yểm trợ cho
người vừa khuất, tối giản đến mức có thể các thể thức tang nghi… là những lựa
chọn gần giống với những điều mà bậc Thầy của mình đã làm, từ hàng ngàn năm
trước.
http://kienthuc.net.vn/