Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN (Nguyễn Vĩnh Thượng)


                                                                  Kết quả hình ảnh cho HOA XUÂN



                                “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
                                  Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
                                             (Mãn Giác thiền sư, đời Lý)

Tết Nguyên đán sắp đến, chúng ta sống thêm một năm xa quê hương nữa. Nhớ đến ngày Tết ở quê nhà thuở trước, mọi người đều rộn rã vui mừng đón chào một mùa xuân mới:
                                “Thịt mở dưa hành câu đối đỏ
                                  Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”

Và trên hè phố tấp nập người qua lại, hình ảnh ông đồ già ngồi viết những vần thơ chúc Tết , cũng không thể thiếu trong bức tranh Xuân.
                                 “Mỗi năm hoa đào nở
                                   Lại thấy ông đồ già
                                   Bày mực tàu giấy đỏ
                                   Bên phố đông người qua…”    
                                              Vũ đình Liên ( Ông Đồ)

Chúng ta đang sống ở Canada, chúng ta đón xuân trong tiết trời buốt giá mùa đông , cây cối trơ cành, không gian bao phủ màu tuyết trắng. Cảnh lạnh lẻo nầy, làm chúng ta luyến nhớ những ngày nắng ấm ở quê nhà. Hơi ấm và hương vị thơm tho từ tách trà lan toả, có làm ấm lòng của những kẻ tha hương?
Uống trà, đọc thơ, ngâm thơ, chăm sóc chậu hoa thủy tiên… là một trong những thú vui tao nhã của người mình.
Bây giờ, chúng ta thử tìm lại hương Thiền  trong những bài thơ Xuân…
Thơ Thiền là một loại thơ triết lý mà các thiền sư khi sáng tác đều có chuyên chở trong đó cái đạo vị thâm thuý của triết lý nhà Phật, về cuộc đời và người đời. Thơ Thiền, nói chung là một cánh rừng đầy kỳ hoa dị thảo, luôn luôn toả hương tịnh yên và thoát tục.
Thiền sư Mãn Giác ( ở vào thời Lý trong lịch sử nước ta) đã nhìn cảnh xuân rồi gửi gấm tâm tư của mình qua bài thơ Xuân như sau:
                                 “ Xuân khứ bách hoa lạc
                                    Xuân đáo bách hoa khai
                                    Sự trục nhản tiền quá
                                    Lảo tùng đầu thượng lai
                                    Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,
                                    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
                                                      Mãn Giác thiền sư ( Xuân )

dịch:
                                  “Xuân đi trăm hoa rung
                                    Xuân đến trăm hoa cười
                                    Trước mặt việc đi mãi
                                    Trên đầu già đến rồi
                                    Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                                    Đêm qua sân trước một cành mai”
                                                           Ngô Tất Tố dịch ( Xuân )

Thiền sư Mãn Giác đã nhìn thấy cảnh Xuân và đã nhận định rằng thời giankhông gian là một dòng sinh diệt, biến chuyển luôn luôn . Mùa Xuân đến rồi mùa Xuân đi, mùa Xuân đi rồi thì hết mùa xuân. Hoa nở rồi hoa tàn, hoa tàn rồi hoa rụng. Việc gì ở đời đã xảy ra , rồi nó cũng sẽ qua, qua rồi cũng mất. Ngay cả con người cũng bị dòng sinh diệt của thời giankhông gian lôi cuốn:
                                    “Xuân khứ bách hoa lạc,
                                      Xuân đáo bách hoa khai..
                                      Sự trục nhản tiền quá
                                      Lảo tùng đầu thượng lai”
                                                           Mãn Giác thiền sư ( Xuân)

Nhưng đứng trước dòng sinh diệt, cũng đừng khẳng định rằng mùa Xuân đi rồi thì hoa rụng hết, vì đêm qua vẫn còn vương lại một cành mai nở ở trong sân chùa thanh tịnhthiền sư đang trụ trì. “Một cành mai”( nhất chi mai) ấy tức là cái  “ chơn tâm” cái gì tốt đẹp vẫn trường tồn, vẫn vĩnh cửu trước dòng sinh diệt của thời gian:
                                      “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
                                        Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”

Khái niệm về cuộc đời vô thường là một dấu ấn của triết lý đạo Phật. Sau ngày đạo Phật ra đời , trong triết học Tây phương có một triết gia là Heraclite cũng đã chủ trương mọi vật đều di chuyển như một dòng nước. Heraclite  đã để lại câu nói thời danh là:
“ Bạn không thể nào bước vào hai lần trong cùng một dòng sông; vì nước mát luôn luôn trôi chảy qua người bạn. Mỗi ngày mặt trời đều đổi mới.” “ You cannot step twice into the same river; for fresh waters are ever flowing in upon you. The sun is new every day”…
Thiền sư Quang Giác ( đời nhà Tống bên Trung Hoa) nhân khi mùa Xuân đến, thì nhớ lại ngày nào mình vẫn còn niên thiếu mà bây giờ tuổi đời đã bảy mươi, thời gia trôi quá nhanh như dòng nước chảy và vấn đề sinh tử là một vấn đềcon người không thể nào tránh khỏi . Thầy viết:
                                       “Khứ niên phùng thanh xuân
                                         Châu nhan ánh đào lý
                                         Kim niên phùng thanh xuân
                                         Bạch phát yểm song nhỉ
                                         Nhân sanh thất thập niên
                                         Tất nhược đồng lưu thủy
                                         Bất liễu bản lai tâm
                                         Sanh tử hà do ly”

Dịch:
                                       “ Năm trước gặp thanh xuân
                                          Má hồng khoe đào lý
                                          Năm nay gặp thanh xuân,
                                          Tóc bạc đầy cả mái
                                          Người đời tuổi bảy mươi
                                          Nhanh như dòng nước chảy
                                          Chẳng ngộ tâm xưa nay,
                                          Sanh tử làm sao khỏi”
                                                      Thích Thanh Từ thiền sư dịch

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017

SÁCH QUÝ


                                                                            SÁCH QUÝ

                                                                               (Cảm nhận của Minh Đạo khi đọc tập sách
                                                                     NHẬN THỨC PHẬT GIÁO HÒA HẢO của cụ Nguyễn Văn Hầu
                                                                     do anh Nguyễn Bạch Trúc và chị Phan Kim Thoa gởi tặng.)

                                                                            Sách quý nghĩa sâu cả tấm lòng,
                                                             Truyền thừa pháp bảo ánh mai hồng.
                                                             Chúng sanh lầm lạc còn tâm tục,
                                                             Vạn vật  qui về vốn tánh trong.
                                                             Ý ngọc quảng khai, Người dẫn dắt,
                                                             Lời vàng thẩm cứu, vị tuyên thông.
                                                             Tào Khê suối mát ươm cây đạo,
                                                             Thầm nguyện cho đời liễu sắc không.
                                                                                      
                                                                                                       Minh Đạo
                                                                                   Ngày 29 Tết năm Đinh Dậu 2017


Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

XUÂN ĐẾN


 
Cánh én tìm mây báo dục xuân,
Lều tranh, suối lượn nước trong ngần.
Dịu dàng mai hé, hương vờn đợi,
Rộn rã rừng khua, gió thoảng ngân.
Năm hết nhớ quê lòng bối rối,
Tết về  chạnh cảnh dạ bâng khuâng.
Tình chân trà đậm vui chào đón,
 Hạnh phúc bình an khắp thế nhân.

                                         Minh Đạo
http://thuvienhoasen.org/p98/tho-nhac-phap-am

MỘT TẤM LÒNG HƯỚNG ĐẾN QUÊ HƯƠNG (Tánh Thiện)



Một Tấm Lòng Hướng Đến Quê Hương
 
Sáng mùng một khi vừa thức dậy
Lòng nhớ về Đức Phật Thích Ca
Chẳng mong cầu năm mới khá ra
Cũng không mong tiền vô như nước .

 
Sáng mùng một chỉ lo làm phước
Gởi chút tiền cho lễ phóng sanh
Về quê hương đất nước yên lành
Chắp tay nguyện muôn loài nhẹ thoát .

 
Sáng mùng một ta không bỏ sót
Một tấm lòng hướng đến tình yêu
Từ núi đồi đến cả nắng chiều
Bao ý đẹp niềm tin trong sáng .

                                Viết vào sáng mùng một Tết năm Đinh Dậu 2017
 
                                           Tánh Thiện

NĂM MỚI NHÌN LẠI CHỮ “PHÚC” ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ CỦA HOÀNG ĐẾ KHANG HY




ngữ phúc, hoàng đế khang hy, chữ phúc, Bài chọn lọc,
 

                               Chữ “Phúc” mà Hoàng đế Khang Hy viết được khắc lên bia đá.
 
                                                    ngữ phúc, hoàng đế khang hy, chữ phúc, Bài chọn lọc,
                                           Chữ Phúc mà Hoàng đế Khang Hy ngự bút còn mang cả ý nghĩa “phúc thọ song toàn”.
 
Hoàng đế Khang Hy ngự bút chữ Phúc lại ẩn hàm “ngũ phúc”: đa Điền, đa Tử, đa Tài, đa Thọ, đa Phúc; hơn nữa, còn có thể hợp nhất “Phúc Thọ song toàn”. Bởi vậy, đây được coi là chữ “Phúc” độc nhất vô nhị từ trước tới nay.

Chữ Phúc “” này mạnh mẽ đầy sức sống, rất có khí thế. Góc ở trên là chữ Đa “”, phía dưới là chữ Điền “”, chếch sang phía cực bên trái là vừa giống với chữ Tử “” và cả chữ Tài “”, bên phải thì giống với chữ Thọ “”. http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

Qua cách viết thư pháp khéo léo tài tình của Khang Hy, chữ Phúc giống như được ghép lại từ được “đa Điền, đa Tử, đa Tài, đa Thọ, đa Phúc” (tạm dịch: nhiều đất, nhiều con, nhiều tài, nhiều thọ, nhiều phúc), cấu thành nên chữ Phúc có hàm nghĩa thật xảo diệu.

Chữ phúc mà Khanh Hy ngự bút là thiên hạ đệ nhất, “đa Tử, đa Tài, đa Điền, đa Thọ, đa Phúc”

Trong Hoàng đế thì Khang Hy rất ít khi viết lưu niệm, vì thế trong các triều đại thì những nét bút được lưu truyền cho đến ngày nay của Hoàng đế Khang Hy là ít nhất, thậm chí có câu nói rằng “một chữ của Khang Hy giá trị nghìn vàng”.

Chữ Phúc mà Hoàng đế Khanh Hy viết có điểm đặc biệt chính là: Trong một chữ bao gồm hàm nghĩa “đa Tử, đa Tài, Đa điền, đa thọ, đa phúc”. Là “ngũ phúc” hợp nhất lại, độc nhất vô nhị từ trước đến nay.

Hoàng đế Khang Hy viết chữ Phúc này là để cầu hồng vận đương đầu, phúc tinh cao chiếu cho tổ mẫu của mình

Khang Hy 8 tuổi đăng cơ, 9 tuổi thì mẹ mất, sau đó được tổ mẫu Hiếu Trang Hoàng Thái Hậu nuôi dưỡng trưởng thành.

Sau khi Khang Hy trưởng thành, có lần khi Hiếu Trang Hoàng Thái Hậu lâm bệnh nặng, Khang Hy đã dùng bút lông viết chữ Phúc này bằng tất cả hiếu tâm của mình, với ý là “hồng vận đương đầu, phúc tinh cao chiếu” (tạm dịch: vận may phủ xuống, cứu tinh cao chiếu).
http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

Và thật kỳ diệu rằng, ngay sau đó sức khỏe của hoàng thái hậu đã được phục hồi. Sau này, chữ Phúc này được khắc lên trên tấm bia đá để cầu phúc.

Chữ phúc của Khang Hy còn có ý nghĩa “phúc thọ song toàn”

Thành ngữ có câu “phúc thọ song toàn”. Nhưng hình dạng của chữ Phúc “” và chữ Thọ “” khác nhau khá lớn, những nhà thư pháp đều không cách nào làm cho hai chữ Phúc và Thọ này ở trong cùng một chữ được, thế mà hoàng đế Khang Hy lại giải quyết được vấn đề này.

Tỉ mỉ quan sát và so sánh thì có thể thấy rằng: Bên phải của chữ Phúc “” chính là chữ Thọ “” theo lối viết thư pháp.

Vì thế, chữ Phúc của Hoàng đế Khang Hy là chữ Phúc duy nhất viết “Phúc Thọ” nằm trong cùng một chữ, trở thành “phúc thọ song toàn”.

Chữ phúc của Khang Hy, còn được dùng để chúc phúc

“Chữ Phúc trên bia đá” do hoàng đế Khang Hy tự tay viết năm đó là để chúc thọ cho tổ mẫu Hiếu Trang Hoàng Thái Hậu, ngoài ra con dấu ở bên trên chữ Phúc là con dấu nguyên vẹn duy nhất mà đến bây giờ còn được lưu lại của Hoàng đế Khang Hy.

Nếu ai muốn tận mắt nhìn thấy diện mạo chân thực, có thể đến Cung Vương Phủ ở Bắc Kinh để thưởng ngoạn chữ “Phúc” mà Khang Hy ngự bút, vô cùng xảo diệu và ẩn chứa hàm ý chúc phúc vô hạn.

                                                 Lê Hiếu, dịch từ cmoney.tw

 

 

Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2017

CHÚC MỪNG NĂM MỚI



CHÚC MỪNG NĂM MỚI
( Dĩ đề vi thủ - Liên hoàn)


Chúc mùa hoa nở ánh dương tràn,
Mừng tận non cao khắp phố làng.
Năm đến nhà nhà đều thịnh đạt,
Mới sang chốn chốn thảy bình an.
Vạn điều thấu hiểu lay tâm tuệ,
Sự lẽ  đào sâu thấm đạo vàng.
Như nguyện đường trần dày phước lạc,
Ý đồng xuân thắm mãn nhân gian.


Nhân gian tươi đẹp phúc muôn nhà,
Vạn vật bên nhau hưởng thái hòa.
Mai báo chào xuân bày dáng ngọc,
Đào khai đón tết thấm hồn hoa.
Làng quê rộn rã nương ao mở,,
Phố thị long lanh ánh điện pha.
Nhật nguyệt chiếu soi qua khắp nẻo,
Cho đời trỗi khúc mãi vang xa.


Cho đời trỗi khúc mãi vang xa,
Phước báu yên vui đến mọi nhà.
Phú quí duyên may luôn giữ nếp,
Bần hàn phận lỡ sẽ đi qua.
Sáng soi tâm trí tìm an lạc,
Ban rải tình thương sống thuận hòa.
Thấu hiểu niềm tin chân vững bước,
Như xuân tươi  thắm với ngàn hoa.


Ngàn hoa khoe sắc giữa vầng dương,
Xem xét lắng nghe thấu lẽ thường.
Duyên nợ bao thời luôn giữ lấy,
Nghĩa tình trọn kiếp vẫn còn nương.
Tìm theo chữ nhẫn mà thông cảm,
Chiếu khắp lòng nhân để hiểu thương.
Vạn vật chào xuân nhà hạnh phúc,
Đạo đời  hòa nhịp bớt sầu vương.


                                          Minh Đạo


Thứ Tư, 25 tháng 1, 2017

BÀI THƠ NGỘ ĐẠO (悟道詩)




Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh.
Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng  (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.  
Ni sư người Khúc Giang, họ Lưu, xuất gia tu ở chùa Sơn Giản ( 山涧寺) gần thôn Tào Hầu. Về sau Ni sư làm vị đứng đầu Tỳ-khưu Ni ở Nam Hoa Thiền Tự  (南华禅寺). Hằng ngày Ni sư thường tụng kinh Niết Bàn nhưng chưa rõ yếu nghĩa, bèn đem Kinh này hỏi Lục tổ Huệ Năng để nhờ ngài khai thị. Ni Sư cầm quyển kinh hỏi chữ. Tổ bảo không biết chữ nhưng cứ hỏi nghĩa, Tổ sẽ giải thích cho. Ni Sư nói: "Chữ còn chẳng biết, làm sao hiểu được nghĩa" Tổ nói: "Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì với văn tự". Nghe qua lời này, Ni Sư vô cùng kinh ngạc và báo cho mọi người trong thôn rõ: "Đây là bậc liễu Đạo, chúng ta nên trân trọng cung thỉnh cúng dường".
Một hôm Ni sư lên núi dạo cảnh Xuân về, với đôi hài bện bằng dây gai lội khắp đầu non có mây ngàn giăng phủ, để tìm mùa XuânNi sư cho rằng một cái gì đó rất đẹp, rất thơ, rất lý tưởng cho cuộc sống tu sĩ của mình. Nhưng đi suốt cả ngày tìm hoài chẳng thấy cái gì là Ý Xuân chân thật. Khi quay gót trở về, đôi hài đã rách nát, chợt nhìn thấy cành mai trên đầu Ni sư đang nở hoa thơm ngát, Ni sư nhận ra đầy cảnh Xuân trọn vẹn ngay nơi tâm mình, đâu cần phải ngao du sơn thủy mới thưởng thức được hương vị mùa Xuân. Lúc ấy Ni sư liền cảm tác một bài thơ “Mai Hoa” được cho là “Ngộ Đạo Thi” như sau:
終 日 尋  春 不 見 春,
芒 鞋 踏 破 嶺 頭 雲;
歸 來偶 把 梅 花  嗅,
春 在 枝 頭 已 十 分。
Chung nhật tầm Xuân bất kiến Xuân.
Mang hài đạp phá lãnh đầu vân.
Quy lai ngẫu bả mai hoa khứu. 
Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
Trọn suốt ngày tìm chẳng thấy Xuân.
Giày gai đạp nát đỉnh mây ngần.
Trở về bỗng thấy hương mai rộ.
Rõ thật đầu cành trọn Ý Xuân.

Bài thơ này chúng tôi sưu tầm trên các trang mạng tiếng Hoa có nhiều lối sao chép thấy âm vận chữ nghĩa có phần khác biệt đôi chút:
1寻春不见春,茫鞋垄头云,归来笑拈梅花嗅,春在枝头已十分. 
Cận nhật tầm Xuân bất kiến Xuân. Mang hài đạp biến lũng đầu vân.
Quy lai tiếu niêm mai hoa khứu. Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
2竟日寻春不见春,芒鞋 踏破岭头云。归来手把梅花嗅,春在枝头已十分
Cánh nhật tầm Xuân bất kiến Xuân. Mang hài đạp phá lãnh đầu vân.
Quy lai thủ bả mai hoa khứu. Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
3尽日寻春不见春,芒鞋 踏遍 岭头云 ,归来笑拈梅花嗅,春在枝头已十分
Tận nhật tầm Xuân bất kiến Xuân. Mang hài đạp biến lãnh đầu vân.
Quy lai thủ bả mai hoa khứu. Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
4竟日寻春不见春,芒鞋 踏破岭头云,归来手把梅花嗅,枝头春意已十分. 
Cánh nhật tầm Xuân bất kiến Xuân. Mang hài đạp phá lãnh đầu vân.
Quy lai thủ bả mai hoa khứu. Chi đầu Xuân ý dĩ thập phân.
5尽日寻春不见春,芒鞋踏破岭头云。归来偶把梅花嗅,春在枝头已十分... 
Tận nhật tầm Xuân bất kiến Xuân. Mang hài đạp biến lãnh đầu vân.
Quy lai ngẫu bả mai hoa khứu. Xuân tại chi đầu dĩ thập phân.
Mặc dù có sự khác biệt, nhưng nội dung của bài thơ không ngoài yếu nghĩa chỉ cho chúng ta lối về Đại Đạo (phản vọng quy chơn).
Trong cuộc sống con người liên quan đến vũ trụ vận hành cứ trôi và trôi mãi, vô biên vô tận. Người ta bắt con tàu thời gian phải dừng lại một bến nào đó gọi là Xuân, Hạ, Thu, Đông.  Rồi mỗi độ Xuân về, họ lại đón mừng rôm rả, hoặc thích du lịch đó đây để tìm kiếm, thưởng ngoạn mùa Xuân ở những nơi danh lam thắng cảnh hữu tình. Họ biểu lộ nét hân hoan, tươi mới của núi non hùng vĩ. Hoặc sông hồ, mây nước thênh thang, qua những ngày vui tạm bợ trong không khí dương Xuân ngắn ngủi. Hoặc hưởng thụ những bữa tiệc, rượu thịt ê hề của những sinh vật bị giết mổ trong những tiếng kêu than hận hờn ai oán.  Hoặc mải miết ham vui trăng gió bị cảnh cuốn lôi, không tự chủ được nên dễ sanh tâm loạn động tình trần. Khi Xuân qua rồi họ cũng buồn vui theo ngoại cảnh, lặn hụp giữa cuộc sống đời thường, bon chen trong vòng tục lụy. Họ chỉ thấy có mùa Xuân sanh diệt vô thường, có đến, có đi; có đưa, có đón; có mừng, có tiễn. Chứ nào ai biết: “Lá rơi là để cho cành trổ hoa.”
Trong quy luật tự nhiên của đất trời, trải qua quá trình sanh-trụ-dị-diệt hoặc thành-trụ-hoại-không. Đối với thời tiết phân định Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng. Con người cũng theo chu kỳ sanh-lão-bệnh-tử không ai tránh khỏi. Nếu chúng ta được tuần tự sanh rồi già, già rồi bệnh, bệnh rồi chết, như thế cũng đã là hạnh phúc lắm rồi,  nhưng có biết bao người đâu dễ được vậy?
 Có một phú ông đến xin Hòa thượng Tiên Nhai chữ viết để mừng thọ vào đầu Xuân. Ngài hạ bút: Ông chết, cha chết, con chết, cháu chết, chắt chết.                                                      Phú ông xem qua không mấy hài lòng: – Trời! Tôi nhờ ngài viết chúc thọ, mong được phước lành mừng Xuân, sao lại đùa giỡn như thế?
Hòa thượng từ tốn bảo: – Chữ tôi viết có ý nghĩa tốt lắm đó. Giả như con trai ông chết trước ông, chắc là ông đau khổ hết sức. Và nếu cháu nội ông chết trước con ông, thì ông và con ông cũng rất đau lòng. Nếu như nhà ông đời nào cũng chết có thứ tự như chữ tôi viết. Đó gọi là hưởng tận tuổi trời, mới thực sự hưng vượng.
Phú ông đổi buồn thành vui liền nói: – À! Có lý.
Thói thường ở đời, khi sanh ra thì người vui, nên họ tổ chức ăn mừng sinh nhựt. Chết thì người buồn sợ, làm lễ tang ma, khóc kể thảm thiết. Khi cúng giỗ chạp gọi là kỵ. Song, sanh tửquy luật tự nhiên. Nếu ai ai cũng hưởng tận tuổi trời theo thứ tự không phải là phước đức lớn sao?
Với năm mới, chúng ta thường chúc mừng cho nhau có thêm một tuổi, như câu đối của người xưa để lại:
Thiên tăng tuế nguyệt, nhơn tăng thọ.
Xuân đáo càn khôn, phúc đáo gia.
“Trời tăng năm tháng, người tăng thọ.
Xuân đến nhân gian, phước đến nhà”.
Điều đó chỉ là sự ước mơtham muốn của con người cầu mong được sống lâu và hưởng phước. Nhưng phước hay thọ đâu phải từ trời ban? Mà do chính con người biết ăn ngay ở lành, biết tu nhân tích đức, biết gieo nhân để hái quả. Tuy nhiên trong cảnh giới vô thường, duyên sanh như huyển, không gì bền vững lâu dài. Ông bà ta đã từng nhắc nhở: “Mỗi năm mỗi tuổi, như đuổi Xuân đi,” thì đâu có gì giữ mãi nét thanh xuân duyên dáng, hồn nhiên, thơ mộng như thuở ban đầu.
Đại sư Thiên Tùng (千松大師 1531—1588) thế danh Minh Đắc, hiệu Nguyệt Đình, Tổ đời thứ 28, Tông Thiên thai ( 天台 宗)  từng bảo:
今 朝 盡 道 添 一 吾 道 如 今 減 一
Kim triêu tận đạo thiêm nhứt tuế. 
Ngô đạo như kim giảm nhứt niên.
Sáng nay người bảo thêm một tuổi.
Tôi nói ngày này bớt một năm.
Quả thật như vậy, tình yêu nào rồi cũng ra đi và niềm hy vọng nào rồi cũng tan theo bọt nước. Nhưng người ta vẫn phải yêu và vẫn phải hy vọng, vì đó là lẽ sống của con người. Vì thế con người sống trong hoài vọng và khái niệm nhiều hơn là nhận rõ sự thật. Đâu phải mỗi Tết đến là được thêm một tuổi. Nào ngờ từng sát na sanh diệt, từng bước thời gian tiến dần về hố thẳm tiêu vong! Họ cứ loanh quanh cho đời thêm mõi mệt. Không có phút giây im lặng chịu lắng dừng để nghe tiếng thở bên trong buồng phổi và nhịp đập con tim đang nhảy múa suy cạn yếu dần. Do đó, không thể là cách thưởng Xuân trọn vẹn.
Trở lại Bài Thơ Ngộ Đạo, Ni sư Vô Tận Tạng muốn nhắn nhủ chúng ta đi tìm Xuân chẳng khác gì đi tìm Đạo:
Trọn suốt ngày tìm chẳng thấy Xuân.
Giày gai đạp nát đỉnh mây ngần”.
Tâm trạng người tầm đạo cũng thế, buổi đầu thường hâm hở, đi học chỗ này, hỏi chỗ kia, tìm kiếm chỗ nọ, thấy chỗ nào có linh có nghiệm thì liền tới. Họ chạy theo phong trào tu học như chạy theo thời trang, cho rằng pháp môn này cao siêu hơn lối tu kia. Thầy kia thuyết pháp hay hơn thầy nọ, đuổi bắt ngôn từ chữ nghĩa, cố chấp theo kiến giải của mình. Mặc dù mình có Tâm Bồ đề, có Tánh Phật, có thể thành Phật, có kiến thức về giáo điển, giải thông về Phật pháp, nhưng cũng phải nhờ thiện hữu tri thức khai thị mới được Tâm thông nhận ra Chân lý.
Nhưng Chân lý là tự trải nghiệm từ tâm mình. Có trải nghiệm chúng ta mới thấu rõ các pháp vốn Như thị. Ngoài tâm không có Phật, không có Pháp, không có mùa Xuân, không có tất cả. Nếu mỗi người chúng ta đều biết dừng lại để trải nghiệm đôi chút về ý nghĩa thực tại của mùa Xuân là gì? Hoặc tự hỏi, Ai tạo ra mùa Xuân? Xuân từ đâu tới? Xuân lại về đâu? Phải biết bốn mùa vận hành thay đổi là do duyên sanh của vạn vật đất trời. Trong sanh có diệt, trong diệt có sanh. Sanh rồi lại diệt, diệt rồi lại sanh. Kiếp sống con người khi trẻ, lúc già là do duyên khởi của tấm thân tứ đại giả hợp, có sống phải có chết; có tươi nhuận phải héo tàn. Nhưng trong thân sanh tử này vốn có Vô vị Chân nhân, là Ông chủ không sanh không diệt, cho dù muôn duyên biến đổi, vạn kiếp vô thường, chẳng có gì làm ta sợ hãi lo âu
Do vậy, Ni sư nhắc cho chúng ta biết Đạo, cầu Đạo không ở nơi non cao hay rừng thẳm, cũng không phải là chỗ phố chợ rộn ràng. Đạo là Pháp thân chân thật, là Tánh thể thường nhiên có sẵn nơi mỗi người chúng ta; ở thánh không thêm, nơi phàm chẳng bớt. Chớ nhọc công hướng ngoại tìm cầu, hãy quay về chính mình thì nhận ra ngay.
Trở về bỗng thấy hương mai rộ.
Rõ thật đầu cành trọn ý Xuân.”
Hương mai là cây mơ đã trỗ hoa trắng tỏa hương thơm ngát vào mùa Xuân. Ý nói Tâm Bồ đề đã thuần thục sáng rỡ thơm hương Tuệ giác, như cây mơ đúng thời tiết nở hoa vậy. Câu này cũng đồng nghĩa với hai câu cuối trong bài Cáo Tật Thị Chúng của Thiền sư Mãn Giác đời Lý:
Mạc vị Xuân tàn, hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
“Chớ bảo Xuân qua hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước nở cành mai”.
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết là Pháp tánh thường nhiên.
Ngoài sân đêm trước nở cành mai là Pháp thân thường tại.

Trong Thiền sử Việt Namcâu chuyện sau đây khá thú vị:

Nhân ngày đầu Xuân, vua Lý Nhân Tông vào núi vãn cảnh, gặp Thiền sư Thiền lão bèn hỏi:
–Hòa thượng năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
Sư đáp:
Đản tri kim nhật nguyệt
  Thùy thức cựu xuân thu !
“Chỉ biết hiện tại thôi,
Năm trước nào ai nhớ!”
Sở dĩ ngài trả lời như thế là vì thiền sư đâu có sống với tâm hoài niệm về quá khứ, hoặc mơ ước ở tương lai, ngài sống ngày nay chỉ biết có ngày nay. Sống với ngày nay đó là sống với tâm sáng suốtlặng lẽ tại đây và bây giờ, gọi là hằng tỉnh, hằng giác. Nói theo kinh Kim Cang là: “Nên sanh tâm không vướng mắc”(Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm).
Nhà vua hỏi tiếp: Hòa thượng ở đây làm gì?
 Ngài trả lời:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh.
   Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân. 
“Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh.
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân”.
Với tâm Thiền sư, mùa Đông có trúc xanh, mùa Xuân có hoa vàng, mùa Hạ có trăng trong, mùa Thu có mây bạc, không phải là ngoại cảnh phân biệt tiền trần, mà tất cả đều hiển lộ Xuân chân thường trong tánh thể bản nhiên thực tại. Đó mới gọi là Xuân bất sanh, bất diệt trong tâm mỗi người chúng ta được thể hiện qua Bài Thơ Ngộ Đạo này.
Thích Giác Nguyên
CON TÀU THỜI KHÔNG
Có con tàu chẳng do ai sáng tạo.
Vượt thời gian và xuyên khắp không gian.
Không điểm khởi đầu cũng không đích cuối.
Cứ đi qua và đi mãi ngút ngàn.
Rồi từ khi tâm chúng sinh xuất hiện.
Tạo lập Ga đời, dựng mốc thời gian.
Bắt con tàu phải tạm dừng mỗi bến.
Chở khách trần và chở cả thương tang.
Mỗi chiếc vé đến - đi, ôi  quá đắt !
Dù thoáng qua trong khoảnh khắc cuộc đời.
Vẫn gánh lấy khổ đau tràn nước mắt.
Một trăm năm, kiếp sống của con người !
Đâu phải một, hai, ba thiên niên kỷ  ?
Tàu trải qua hằng triệu triệu năm rồi.
Mỗi Tết đến, mỗi Xuân sang “ Cung Hỉ ”.
Bao chúng sinh chịu máu đổ đầu rơi !
Làm sao đếm giòng thời gian vô tận,
không gian to rộng đến vô cùng?
Loài người ơi, chớ gây thêm thù hận.
Nhân quả xoay vần, nghiệp báo khó dung!
Hãy tỉnh thức cùng lên tàu tiến tới.
Xây dựng Tình Người, mở rộng Tình Thương.
Dẫu thực tại vô thường luôn biến đổi.
Hành tinh này vốn một mái nhà chung.
Hãy tưởng nhớ  đến cội nguồn Nhân bản.
Hãy quay về trong Thể tánh Đại đồng.
Cho cuộc sống ngày càng thêm tươi sáng .
Hạnh phúc an bình, tự tại thong dong .
                       Saigon Xuân Tân Tị 2001
XUÂN TÂM
Thử hỏi năm nào năm mới sang ?
Bốn mùa hoa nở với thời gian
Trong bầu Xuân sắc đi rồi đến.
Từ thuở xưa sau vẫn ngút ngàn !
Như vậy có gì phải đón đưa ?
Với lời chúc tụng biết sao vừa ?
Trăm hoa, trăm cảnh, trăm ong bướm.
Chớ đuổi tâm theo ý lọc lừa !
Đêm lại ngày qua những tháng năm.
“Bình thường là Đạo”, khỏi đi tầm .
Ngoài Tâm không Phật, không cầu khẩn.
Y giáo phụng hành Đức với Nhân.
Chân lý ngàn xưa vẫn tiếp truyền.
Thiền tâm vằng vặc ánh trăng huyền.
Xưa nay Tự Tánh hằng soi chiếu.
Nếu biết quay đầu, thấy Bổn nguyên.
 Một niệm không cầu, cũng chẳng mong,
Xuân đi, Xuân đến, mặc xoay vòng.
Giữ lòng thanh thản, không lo nghĩ.
Ấy buổi êm đềm nơi cửa Không.

Xuân Bính Dần’ 86

                                       Thích Giác Nguyên