BỐN PHÁP ẤN
CỦA ĐẠO PHẬT
Đức Đạt Lai Lạt ma
CỦA ĐẠO PHẬT
Đức Đạt Lai Lạt ma
Bốn pháp ấn của Đạo Phật hay những chân lý hình thành nên một bộ phận quan trọng của giáo huấn tôn giáo của chúng ta. Liên hệ đến thời đại của chúng ta cũng là sự rèn luyện và hòa bình của tâm thức. Phương pháp của Đạo Phật về chuyển hóa tâm thức không chỉ là một vấn đềniềm tin mà cũng là một sự thuyết phục đạt đến được qua thiền phân tích. Vì thế, khảo sát là rất cần yếu.
Nhằm để thực hiện một
sự khảo sát trong sự quan tâmnày, chúng ta cần một thái độ hoài
nghi. Chúng ta không chỉ chấp nhận những vấn đề trong
một niềm tin mù quáng. Chủ nghĩa hoài nghi đưa đến những
câu hỏi, và câu hỏi kêu gọi một sự khảo sát. Sự khảo sát là thiền quán phân
tích qua điều mà chúng ta đạt đến một sự tỉnh thức trong
sáng hơn: một hình ảnh trong sáng hơn của thực tại.
Điều này phát sinh sự thuyết phục vững chắc. Chỉ qua sự thuyết
phục vững chắc mà sự chuyển hóa tinh thần có thể xãy
ra.
Nói cách khác, cái đầu
hay bộ óc chúng ta giống như một phòng thí nghiệm. Sự thông minh của con
người là đặc biệt và khác biệt với những chủng loại có vú khác.
Sự thông minh như thế là một khí cụ. Vì thế, trong phòng thí nghiệm
của não bộ, sự thông minhcủa con người hay khả năng thông
thái được sử dụng như một khí cụ để thẩm tra những cảm xúc khác
nhau, và rồi thì tiến hành những sự thể nghiệm trên một cấp độ cảm
xúc. Điều này có thể làm cho chúng ta chuyển hóa những cảm
xúc của chúng ta.
Theo một số nhà khoa
học, cảm xúc không nhất thiết là tiêu cực. Cảm
xúc là một cảm nhận rất mạnh mẽ. Trong khi một số cảm xúc là tàn
phá, những cảm xúc khác là xây dựng. Trong một gặp gở với những
nhà khoa học, chúng tôi đã kết luận rằng có những cảm
xúc ngay cả trong tâm của Đức Phật. Có một cảm giác mạnh mẽ
của việc quan tâmvà từ bi và cũng là sự thân chứng tính
không.
Lúc ban đầu, chỉ
có một cảm nhận mơ hồ của tính không. Tại một trình độ,
không có cảm xúc, nhưng một khi chúng ta trở nên quen thuộc hơn
với tính không, rồi thì cảm nhận ấy sẽ tăng lên. Tại một trình độ nào
đó, sự thân chứng tính không cũng trở thành một loại cảm
xúc. Do vậy, trong sự thực hành phát triển tuệ trí và yêu
thương ân cần / từ bi, chúng ta sẽ làm mạnh lên những
phẩm chất nội tại và rồi thì đạt đến một thể trạng nơi mà chúng
ta có một đợt bộc phát của cảm giác gọi là cảm
xúc. Chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng sự nối kết này
giữa thông tuệ và cảm xúc. Thế nên, não bộ và trái tim có thể đi
bên cạnh nhau. Tôi nghĩ đây là sự tiếp cận của Đạo Phật.
Trong những truyền
thống tư tưởng cổ xưa của Ấn Độ, những phương pháp tương
tự đã được chấp nhận và thực hiện. Điều đặc biệt đối
với Phật Giáo là Đức Phật cho chúng tasự tự do để
đặt câu hỏi đối với những ngôn từ của chính Ngài. Đức Phật đã
nói một cách rõ ràng rằng tất cả những Tì kheo và người thông
tuệ nên thẩm tra những ngôn từcủa Ngài giống như một người thợ kim
hoàn kiểm tra vàng bằng việc đánh bóng, cắt gọt, và đặt nó trong
lửa. Ngài yêu cầu mọi người không được chấp nhận những giáo
huấncủa Ngài hoàn toàn từ niềm tin.
Do vậy, có một sự nối
kết giữa kiến thức trừu tượng và kinh nghiệm thực sự.
Chúng đi đôi với nhau. Dường như đối với tôi, mỗi quốc gia quan
trọng có một tôn giáo truyền thống. Có hai khía cạnh đối với tôn
giáo: một là sự rèn luyện tâm thức, và thứ đến là triết lý. Trong
dạng thức của sự rèn luyện tâm thức, tất cả những tôn giáo quan
trọng là giống nhau. Tất cả cùng có khả năng giống nhau để chuyển hóa tâm
thức của con người. Một sự biểu hiện rõ ràng của điều này
tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng chứa đựng thông
điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ, toại nguyện, và kỷ luật tự
giác. Thông điệp là giống nhau, nhưng trong một số trường hợp, ý
nghĩa có thể hơi khác nhau do bởi triết lý của họ khác nhau.
Có thể có những sự
khác biệt quan trọng trong triết lý của những tôn giáo khác nhau
nhưng chúng ta không thể nói rằng tôn giáo này tốt hơn tôn
giáo kia. Tất cả có cùng khả năng để chuyển hóa tâm thức. Tuy
thế, mỗi chúng ta có một thiên hướng tinh thần khác
nhau. Vì thế, chúng ta thấy có nhiều phương pháp khác nhau
để tiếp cận. Tuy vậy, kết quả hay tác dụng là giống nhau nhiều hơn
hay ít hơn.
Do vậy, chúng ta không
thể nói rằng tôn giáo này hay tôn giáo kia là tốt hơn.
Một thái độnhư vậy cho phép chúng ta phát triển sự tôn
trọng đối với những truyền thống tôn giáoquan trọng khác. Hàng
triệu người đã từng được truyền linh cảm bởi những truyền thốngkhác nhau
trong quá khứ. Nó có thể giúp họ hướng đến một đời sống đầy đủ ý
nghĩa. Trong tương lai, hàng triệu người sẽ tiếp tục được truyền cảm
hứng và, như một kết quả, đời sống của họ cũng sẽ trở nên đầy đủ ý
nghĩa hơn và tràn đầy với từ bi. Về phía triết lý, tuy thế, chúng
ta có thể nói rằng triết lý này là phức tạp hơn hay triết lý nọ
là đơn giản hơn.
Trong người Tây
Tạng, chúng tôi nói về bốn pháp ấn hay bốn chân lý của Đạo
Phật. Đây là:
1- Tất cả những hiện
tượng do duyên sinh là vô thường (chư hành vô
thường);
2- Tất cả những hiện
tượng nhiễm ô là khổ đau (nhất thiết hành khổ);
3- Tất cả những hiện
tượng là vô ngã và trống không (chư pháp vô ngã);
4- Niết bàn là
hòa bình (niết bàn tịch tĩnh).
Để giải thích pháp
ấn thứ nhất: những hiện tượng đuyên sinh là vô thường,
trước hết chúng ta phải thấu hiểu rằng căn bản của nó liên
hệ đến vô thường. Bất cứ hiện tượngđặc thù mà lệ thuộc trên
những nguyên nhân và điều kiện của nó cho sự tồn tại của
nó là được phân loại như một hiện tượng duyên sinh. Hiện tượng này lệ
thuộc đến nguyên nhân và điều kiện (nhân và duyên). Thí
dụ, trong khi ngồi trong một căn lều đặc biệt, chúng ta tỉnh
thức rằng không có cây cối gì. Do bởi sự vắng bóng của
“cây cối”, chúng ta có thể biết rằng cây cối không hiện hữu.
Trong cách này, tâm thức chúng ta có thể biết điều gì
đấy; được gọi là, sự không tồn tại của cây cối. Vì thế, điều này rõ
ràng chứng tỏvới chúng ta rằng sự không tồn tại của
cây cối là hiện hữu thật sự bởi vì nó là chủ đề đối với tri
thức của chúng ta.
Đồng thời, sự không hiện
hữu của “cây cối” rõ ràng không tồn tại trong một ý
nghĩa củavật lý vì thế chúng ta có thể thấy hay nhận
thức nó. Cũng thế, nó là sự xác nhận một đối tượng có thể nhận
thức và thực tế, nhiều thứ mà chúng ta thừa nhận phải
được làm nên trong những dạng thức của sự thông hiểu về sự không hiện
hữu của cây cối. Thí dụ, lấy những bông hoa mà chúng ta có
thể thấy. Một trong những phẩm chất mà chúng ta tìm thấy trong
những bông hoa là sự không hiện hữu của cây cối, chúng ta thấy
sự tồn tại vô tận của sự không hiện hữu của những đối
tượng khác không là bông hoa. Chắc chắnrằng sự không hiện hữu của
những đối tượng khác này trong bông hoa đặc thù này dứt khoát là đối
tượng có thể nhận thức được. Nhưng cùng lúc, nó không phải là
loại đối tượng có thể định rõ đặc điểm được.
Tương tự thế,
trong trường hợp của những đối tượng chẳng hạn như vô thường hay vô
ngã, chúng có thể được lĩnh hội và nhận thức bởi tâm thức, nhưng đồng
thời, không có một sự tồn tại được làm cho có thể từ phía của chúng.
Trong cùng cách, khi chúng
ta nói về tính đại cương hay đặc thù, tốt hơn hãy nghĩ
về những bông hoa cá thể, chúng ta có thể nghĩ về một “bông hoa”
trong một ý nghĩa tổng quát. Thí dụ, chúng ta có thể
thấy một bông hoa đặc thù ở một nơi đặc biệt tại một thời gian đặc
trưng. Rồi thì sau này, sau một thời gian nào đấy chúng ta thấy
một bông hoa khác với một màu sắc khác. Đơn giản bằng việc thấy bông
hoa thứ hai, chúng ta có thể kết luận rằng đây cũng là một
bông hoa. Do thế, khi chúng ta đặt tên thuật ngữ “bông
hoa”, đến những đối tượng đặc thù nào chúng ta đặt tên cho thuật
ngữ ấy?
Nếu thuật ngữ “bông
hoa” được đặt tên duy nhất cho bông hoa đặc thù mà chúng ta đã
thấy trước đây, rõ ràng bông hoa đặc thù ấy không thể tìm thấy trong
bông hoa mà chúng ta thấy sau này. Do vậy, có một loại “bông hoa” có
phẩm chất chung của cả hai loại hoa này. Tuy nhiên, mặc dù đây là một thực
tế, nó không có nghĩa rằng có một loại “bông hoa” chung thâm nhập khắp
tất cả những loại bông hoa và là loại hoa tồn tại khác biệt với những
loại bông hoa này.
Do thế, khi chúng
ta chú ý một bông hoa đặc thù, chúng ta đang quán chiếu một
loại phẩm chất khác biệt với những đối tượng không phải là bông hoa. Cùng phẩm
chất ấy cũng được tìm thấy trong bông hoa mà chúng ta thấy
sau này. Đấy là do bởi phẩm chất này mà chúng ta có thể
thấu hiểu, nhận thức, và phân biệt những kiểu mẫu khác nhau của
những đối tượng khác nhau này như là những ‘bông hoa’.
Bây giờ câu hỏi lại
phát sinh: một hiện tượng như thế là nguyên nhân hay điều
kiện (nhân hay duyên)? Tất cả những hiện tượng hiện hữu có
thể được phân biệt thành hai đặc trưng: những hiện tượng hiện
hữu và những đối tượng không hiện hữu. Khi chúng ta nói về
một đối tướng hiện hữu, nó được quyết định trong ý nghĩa rằng
có một ý thức thấu hiểu nó, nhận thức nó. Trong trường
hợp của một đối tượng không hiện hữu, nó là điều gì đấy không thể nhận
thức hay lĩnh hội bằng bất cứ loại ý thức nào.
Chúng ta không
bao hàm ở đây bất cứ điều gì được nhận thức bởi bất cứ loại tâm
thứcnào thật sự hiện hữu. Vì thế, một lần nữa, chúng ta phải
làm một sự phân loại riêng biệt giữa những loại tâm thức khác nhau: tâm
thức có căn cứ và tâm thức không có căn cứ. Đấy là do bởi điều
này khi chúng ta nghiên cứu nhận thức luận Phật Giáo, chúng
ta thấy những loại tâm thức được diễn tả.
Lưu ý đến ý nghĩa thật
sự của nhận thức có căn cứ, có những học giả đưa ra một
loại định nghĩa và đồng ý tương tự trên ý nghĩa của nhận
thức có căn cứ. Tuy thế, có những quan điểm bất đồng. Những đại
luận sư như Trần Na và Pháp Xứng giải thích những
điểm này trong những chi tiết phong phú.
Có những sự khác biệt
rộng lớn hay nhưng sự đa dạng hay những loại trong ý nghĩa của những nguyên
nhân và điều kiện. Nhưng, một cách chính yếu, chúng ta có
hai loại nguyên nhân. Thứ nhất được gọi là nhân bản thể, nhân
chính- một nguyên nhân mà chính yếu là đáp ứng cho
việc mang vào chức năng, trên sự sản sinh, bản chất tự nhiêncủa
một đối tượng đặc thù, thực thể của một đối tượng đặc thù. Thứ hai
điều mà chúng ta gọi là nguyên nhân hợp tác, hay nhân phối
hợp, hay nhân phụ là điều mà một nhân tố hiện hữu cho sự tồn tại hình
thành đối tượng đặc thù ấy.
Do thế, trong vũ
trụ của tâm thức, cho dù đấy là một tâm thức tiêu cực hay tích
cực, một cảm xúc tích cực hay tiêu cực, trong cả hai trường
hợp, có hai nhân chính. Đây là, thứ nhất, nhân bản thể đáp ứng cho
sự sản sinh thực thể của chính bản chất tự nhiên của tâm
thức, và thứ hai, nhân phối hợp, hay nhân phụ là một loại nhân tố gián
tiếp tạo điều kiện cho một loại tâm thức có cơ hội sinh
khởi.
Thánh Thiên, trong bốn
trăm dòng kệ, đã nói một cách rõ ràng rằng những cảm xúc tiêu
cực và phiền não sinh khởi từ một nhân bản thể là
khó khăn để phân biệt. Tuy thế, những cảm xúc tiêu cực sinh
khởi từ duyên phối hợp hay những nhân tố phụ thì dễ dàng để kiểm
soát hơn. Tùy thuộc trên tình trạng và nhân tố trực
tiếp, chúng có thể được chinh phục và loại trừ. Những thí dụ về
những nhân tố này là thù hận, giận dữ, vướng mắc, chấp trước,
và, trên phía tích cực, là từ bi và cảm giác quan tâm săn
sóc.
Quen thuộc với
những nhân tố này làm cho chúng sinh khởi lần tiếp theo. Những
điều này là có cơ sở. Những cảm xúc đi đến hiện hữu do bởi chạm
trán với một hoàn cảnh, cho dù là tích cực hay tiêu cực, là
không có cơ sở.
Dĩ nhiên, có những
loại nhân tố và điểu kiện khác (nhân duyên khác). Tất cả những loại hiện
tượng, là phụ thuộc và sinh khởi với nguyên nhân và
những điều kiện của nó, được biết như là những hiện tượng có điều
kiện và vô thường. Một cách căn bản, có hai cấp độ ý nghĩa vô
thường: vô thường trong cấp độ thô, và vô thường trong bản
chất tự nhiênvi tế hơn của hiện hữu. Cấp độ thô hơn của vô
thường liên hệ đến những thể trạng nhất thời của một đối
tượng trong ý nghĩa hoại diệt đối với sự tương tục của
nó. Khi chúng tanói về vô thường vi tế, nó có ý nghĩa hơn
trong sự hoại diệt nhất thời hơn là trong dạng thức tương
tục của nó.
Khi chúng ta nói,
tất cả những hiện tượng có điều kiện hay duyên sinh là vô
thường,chúng ta đang liên hệ đến cấp độ vi tế hơn của vô
thường: sự hoại diệt nhất thời của một đối tượng đặc thù. Cấp độ vi
tế hơn này của vô thường có thể được hiểu trong hai cách:
- Thứ nhất, sự không hiện
hữu của khoảnh khắc đầu tiên của hiện tượng vô thườngtrong
khoảnh khắc thứ hai.
- Thứ hai, chính thời
khắc thứ đầu tiên của hiện tượng vô thường ấy, được sản
sinh trong một cách mà nó là nguyên nhân cho sự hoại diệt của hiện
tượng.
Làm thế nào chúng
ta chứng tỏ và làm thế nào chúng ta biết rằng có sự hoại
diệt từng thời khắc này ở cấp độ vi tế hay không? Chúng
ta biết điều này qua sự thấu hiểu cấp độ thô hơn của vô thường,
ấy là, sự hoại diệt của một hiện tượng duyên sinh đặc
thù. Thí dụ, chúng ta thấy một hòn núi sụp đổ, một căn nhà tan
vở, và v.v… Bằng việc hiểu biếtsự hoại diệt của sự tương tục của
một hiện tượng đặc thù, chúng ta kết luận rằng, có một
sự thay đổi vi tế tiếp diễn. Ngoại trừ cấp độ vi tế thay
đổi xãy ra, bằng không thì không thể có sự thay đổi ở mức độ thô hơn của hiện
tượng.
Ngay cả trong trường
hợp của một hòn đá, điều mà chúng ta thường thấy một vật gì đấy
rắn chắc, vật gì đấy hiện hữu không thay đổi, khi chúng ta nhìn
vào bản chất tự nhiêncủa hòn đá ấy ở cấp độ nhỏ bé của hạ nguyên tử, chúng
ta sẽ thấy rằng nó trãi qua những sự thay đổi liên tục. Tóm lại,
điều này có nghĩa rằng tất cả những hiện tượng có điều kiện hay duyên
sinh là vô thường.
Rõ ràng, thời
khắc đầu tiên của một hiện tượng duyên sinh được sản sinh
trong tình trạng phân hủy. Sự sản sinh là nguyên nhân của
sự phân hủy (sinh là nguyên nhân của diệt). Không cần một nhân mới
cho sự phân hủy của một đối tượng đặc thù nào đó. Nói tóm lại, những
trường phái tư tưởng của Phật Giáo là Kinh Lượng Bộ, Duy
thức tông, vàTrung Quán tông chấp nhận rằng sự phân hủy của một hiện
tượng duyên sinh đặc thù không lệ thuộc trên một nguyên
nhân mới cho sự phân hủy của nó. Tì bà sa luận bộ có một sự giải
thích hơi khác hơn.
Do vậy, chúng ta nói
những hiện tượng vô thường lệ thuộc trên nguyên nhân chúng.
Một nguyên nhân là kẻ sản sinh ra một tác động đặc thù, là, lệ
thuộc trên một nguyên nhânsản sinh ra nó. Do vậy, bất cứ nguyên
nhân nào mà nó là một kẻ sản sinh ra một kết quả, đến lượt nó, là một kết
quả của chính nguyên nhân của nó. Sự chu biến là ở đấy. Chu
biến có nghĩa là tất cả những nguyên nhân sản sinh luôn luôn là
kết quả của chính những nguyên nhân của nó. Do thế, mối quan hệ
nguyên nhân/ hệ quả hay luật nhân quảlà một vòng tương tục.
Khi chúng ta thấy
những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân
biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây
là thế giới của thân thể vật lý và tâm thức. Điều
gì phân biệt hai thế giới này là những nguyên nhân cụ
thể quyết định chúng. Những nguyên nhân quan trọng của tâm
thức, hay những gì chịu trách nhiệm cho việc sản sinh của một tâm
thức, phải là tâm thức, không phải thân thể vật lý. Nguyên
nhânthật sự ấy phân biệt tâm thức khỏi chủ thể vật lý.
Trong dạng thức của
những duyên phối hợp, có thể có có một tâm thức hành động như
một duyên phối hợp cho việc phát sinh một đối tượng vật chất. Tương
tự thế, có thể có một đối tượng vật chất hành động như một duyên phối
hợp để phát sinh ra một tâm thức. Cũng có thể có một đối tượng lệ
thuộc trên những nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên)
của nó, nhưng khi chúng ta nói về bản chất của đối tượng,
thế thì nó lệ thuộc trên những tư tưởng nhận thức mệnh
danh đối tượng đặc thù ấy. Nói cách khác, việc xác định đối tượng đặc thù ấy là tùy
thuộc trên tâm thức chỉ định.
Chân lý thứ hai trong bốn chân lý hay bốn dấu ấn của Đạo
Phật là tất cả mọi hiện tượngnhiễm ô là ở trong bản chất của
khổ đau (nhất thiết hành khổ) . "Sự nhiễm ô" ở đây một cách chính
yếu liên hệ đến những cảm xúc phiền não hay tiêu
cực, và những dấu vết, hạt giống hay xu hướng của các cảm
xúc phiền não này. Tuy nhiên, ở đây chúng ta nên thấu
hiểu một cách chính yếu nhân tố nhiễm ô như những cảm
xúc phiễn não hơn các dấu vết. Khi chúng ta nói tất cả mọi thứ nhiễm
ô là khổ đau, chúng ta muốn nói những đối tượng đó hoặc là được
sản sinh bởi những cảm xúc phiền não hay lệ thuộc trên
chúng.
Để thấu hiểu tất cả
những hiện tượng nhiễm ô là khổ đau trong bản chất, chúng
ta phải thấu hiểu ba trình độ của khổ đau. Thứ nhất là khổ đau
của khổ đau (khổ khổ), rồi thì khổ đau của thay đổi (hoại khổ), và cuối
cùng đó là khổ đau điều kiện hóa cùng khắp (hành khổ). Khi chúng
ta nói về tất cả những hiện tượng như khổ đau, chúng ta liên
hệ đến trình độ thứ ba của khổ đau: khổ đau điều kiện hóa
cùng khắp. Điều này hoạt động như nền tảng cho hai trình độ khổ
đau kia.
Chúng ta có thể cố
gắng đề thấu hiểu tất cả mọi hiện tượng ở trong bản chất khổ
đau như thế nào bằng việc thẩm nghiệm luật nhân quả. Ở phía trước, tôi đã giải
thích rằng tất cả những hiện tượng duyên sinh lệ thuộc trên
những nguyên nhân và điều kiện tương ứng. Sự kiện đơn
thuần của việc lệ thuộc trên nguyên nhân và điều
kiện để phát sinh ra những cảm xúc phiền não. Theo định nghĩa,
những thứ đó ở trong bản chất của khổ đau.
Chân lý thứ ba tuyên bố rằng tất cả những hiện
tượng là trống rỗng và vô ngã. Ở đây, chúng tôi muốn nói
tất cả mọi hiện tượng, không chỉ những hiện tượng duyên sinh mà
thôi. Chúng tôi không chỉ đang nói về những hiện tượng lệ
thuộc trên nhân duyên, mà muốn nói cả những hiện tượng thường
và hiện tượng vô thường.
Chúng tôi muốn
nêu ra gì khi nói rằng tất cả những hiện tượng là trống rỗng và vô
ngã? Có những quan điểm bất đồng về điều này trong bốn trường phái tư
tưởng của Đạo Phật. Ý nghĩa của vô ngã được chấp
nhận chung trong tất cả những trường phái tư tưởng Phật Giáo (ngoại
trừ một ít nhóm trong những phân phái của Tỳ Bà Sa Luận Bộ) là sự vắng
bóng của một con người độc lập và tồn tại một
cách thực chất.
Khi chúng ta thẩm
nghiệm những quan điểm triết lý Đạo Phật và Không Đạo
Phật, những trường phái không Đạo Phật khẳng định về khái niệm một
người như tồn tại độc lập về thực chất. Nhưng những trường
phái Phật Giáo phủ nhận quan điểm này. Những trường phái chấp
nhận con người như tồn tại độc lập về thực chất cũng thừa
nhận rằng có một loại linh hồn hiện hữu riêng biệt với
những tập hợp uẩn và tinh thần (thân và tâm). Họ thêm rằng loại linh
hồn này hay con người đến từ kiếp trước vào kiếp này
và rồi sẽ tiếp tục đi đến kiếp sau. Tất cả những trường phái Phật
Giáo phủ nhận sự tồn tại của một tự ngã như vậy.
Nếu một tự ngã tồn
tại độc lập về thực chất như vậy, chúng ta có thể
xác định được nó. Qua sự khảo sát, chúng ta phải có thể tìm ra một con
người hay một linh hồn. Xa hơnnữa, nếu tự ngã là thường còn, đặc
biệt trong ý nghĩa của một con người tồn tại một
cách độc lập về thực chất, thì chúng ta không thể liên
hệ đến sự tan rả của tự ngã ấy, tuổi tác của tự ngã, bởi vì nó được thừa
nhận rằng nó hoàn toàn độc lập với những tập hợp uẩn thân/
tâm và thường còn. Những trường phái tư tưởng Tỳ Bà Sa Luận Bộ và Kinh
Lượng Bộ chỉ liên hệ đến sự vô ngã của con người (nhân
vô ngã) chứ không ở những hiện tượng.
Những trường phái tư
tưởng Cụ Duyên Trung Quán và Duy Thức Tông có một nhận
thức cao hơn. Họ nói răng một con người tồn tại tự trị về thực
chất là không tồn tại. Bằng việc tiếp nhận khái niệm triết
lý này, chúng ta chắc chắn có thể giảm thiểu tham dục, chấp
trước, và dính mắc.
Tuy nhiên, quan
điểm này sẽ không tấn công sự chấp thủ ở những tập hợp uẩn thân/
tâm. Do thế, khi chúng ta đi lên những trường phái Phật
Giáo cao hơn về tư tưởng, họ nói không chỉ về việc vắng bóng sự tồn
tại của một con người độc lập, thực chất (nhân vô ngã),
mà cũng nói về sự vô ngã của các hiện tượng (pháp vô ngã).
Họ công nhận sự thiếu vắng một sự tồn tại độc lập của
tập hợp những uẩn thân/ tâm.
Liên hệ đến ý
nghĩa về sự vô ngã những hiện tượng, có những sự khác biệt
của trường phái Duy Thức (Cittamatra) và trường phái Trung Quán (Madhyamika).
Khi trường phái Duy Thức liên hệ đến sự vô ngã của các
hiên tượng, nó có nghĩa là những sự thiếu vắng đối tượng riêng biệt về thực
chất. Nó phản bác một chủ thể hiện hữu ngoại tại nhưng thừa nhận sự tồn
tại độc lập của tâm thức, sự nhận thức. Vì thế, bằng việc thiền
quán trên quan điểm này của Duy Thức Tông, chúng ta có
thể giảm thiểu sự chấp trướcvà tham dục đối với những
đối tượng bên ngoài.
Đối với những nhà Trung
Quán, Duy Thức Tông không giải quyết được vấn đề. Nếu người
ta tiếp nhận quan điểm Duy Thức, thì người ta có thể giảm
thiểu tham dục và chấp trước đối một đối tượng hiện
hữu ngoại tại nhưng những loại cảm xúc tinh thần tiêu cựcvà
mạnh mẽ khác sẽ sinh khởi. Đây là bởi vì Duy Thức Tông thừa nhận sự tồn
tại cố hữu (có tự tính) của tâm thức.
Do thế, đối với những
nhà Trung Quán , trong quan điểm của Duy Thức Tông không
cónăng lực đối kháng với những cảm xúc này. Thay vì thế,
theo quan điểm của Trung Quán, khi quan tâm những đối
tượng ngoại tại và tâm thức nội tại, sự nhận thức là giống
nhau. Chúng bình đẳng trong dạng thức của việc không có sự tồn
tại cố hữu hay một sự tồn tại khách quan tuyệt đối (vô
tự tính).
Vì vậy, khi chúng
ta nói rằng tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng và vô ngã, chúng
ta phải trở nên quen thuộc với những trình độ khác
nhau của sự trình bày bởi những trường phái triết học. Trong thực tế,
khi mỗi một trong bốn trường phái tư tưởng Phật Giáo này thực
hiện sự trình bày của họ về ý nghĩa của vô ngã và tính
không, họ trích dẫn từ chính những giáo huấn của Đức Phật.
Thí dụ, trong những kinh
điển nào đấy, hiện hữu một kinh điển đặc thù nào đấy
đang nói về một người tồn tại độc lập về thực chất. Có một tuyên
bố trong một kinh điển rằng năm tập hợp uẩn thân/ tâm là gánh
nặng hay phiền não, và con người là kẻ mang vác lấy những gánh
nặng hay phiền não này. Vì thế nó hiện hữu giống như con
người và tập họp uẩn thân/tâm là riêng biệt.
Bây giờ câu hỏi sinh
khởi, nếu tất cả những sự trình bày của bốn trường phái tư tưởngPhật Giáo là xuất
phát từ kinh điển, với những trích dẫn, chúng ta kết luận loại
nào là đúng? Đối với điều này, chúng ta cần dựa trên luận
lý (logic) và lý trí. Chúng ta có thể chứng minh qua
sự thấu hiểu và nhận thức của chúng ta rằng sự trình bày
triết lý của những trường phái Phật Giáo cao hơn là hợp lý hơn
những trường phái thấp. Người ta có thể có một sự thấu hiểu vi tế về ý
nghĩa của vô ngã vì thể một người không có sự tồn tại độc
lập hay bản chất, nhưng người ta vẫn có thể có một sự thấu
hiểu sai lầm về quan điểm triết lý. Một hành giả có
thể có một thấu hiểu hoàn hảo về sự thiếu vắng của một sự riêng biệt thực
chất của chủ thể và đối tượng, nhưng vẫn có còn có một sự chấp
thủmạnh mẽ tại cái thấy tâm thức như tồn tại một cách cố
hữu.
Một khi chúng ta có
sự thấu hiểu hoàn toàn về quan điểm triết lý được trình bày
bởi trường phái tư tưởng Trung Quán, sau đó chúng ta có thể
thấy cả chủ thể (tâm thức) và đối tượng như không có sự tồn tại cố
hữu, tuyệt đối, hay khách quan. Trong khi chúng tacó loại hiểu
biết ấy, thì không thể có việc sinh khởi những nhận thức sai
lầm về tự ngã, như được trình bày trong những trường phái Phật Giáo thấp
hơn về tư tưởng.
Bằng việc sử dụng loại
phân tích và khảo sát này, chúng ta có thể kết luận rằng ý
nghĩacủa vô ngã hay tính không được đề xuất bởi
những trường phái tư tưởng Phật Giáo cao hơn là thậm thâm hơn
nhiều. Vì thế, đấy là ý nghĩa của vấn đề "tất cả các hiện
tượng là trống rỗng và vô ngã."
Theo quan điểm triết
lý của Tỳ Ba Sa Bộ (Phân biệt thuyết bộ), khi họ nói về việc thiếu vắng sự tồn
tại của con người có một sự hiện hữu độc lập hay
có thực chất và họ nói rằng tất cả những hiện tượng và vô
ngã, thì họ không liên hệ đến nó như được trình bày bởi những trường
phái Phật Giáo cao hơn. Khi Tỳ Bà Sa Bộ nói về sự không hiện
hữucủa con người, một con người tồn tại độc lập có thực
chất, họ kết luận rằng không có đối tượng nào có thể được thụ
hưởng bởi một con người như vậy. Trên căn bản của lập
luận này, họ thừa nhận rằng tất cả các hiện tượng là vô
ngã.
Theo quan điểm của Trung
Quán, ý nghĩa vô ngã này của các hiện tượng là một sự giải
thích là nông cạn. Nó thiếu vắng chiều sâu bởi vì người ta chỉ có thể nói
về vô ngã của hiện tượng bằng việc liên hệ nó một
cách nông cạn đến sự không tồn tại của một con người hiện
hữu độc lập và có thực chất. Do vậy, người ta không thể nói về
sự vô ngãcủa một đối tượng mà không liên hệ nó đến sự vô
ngã của con người.
Trái lại, Trung
Quán Tông không chấp nhận sự hiện hữu của đối tượng ngoại
tại. Do thế, đối với họ, ý nghĩa của vô ngã được trình bày
bởi Duy Thức Tông là điều gì đấy được tạo nên bởi tâm thức. Nó
không phải là một ý nghĩa đúng đắn. Duy Thức Tông chỉ nói
về việc thiếu vắng sự tồn tại của đối tượng ngoại tại chứ không phải tâm
thức. Đối với những nhà Trung Quán, đấy là một quan điểm giả tạo
bởi vì nó không đối mặt với thực tại, và do thế nó không phải là một khám
phá có giá trị.
Theo những nhà Trung
Quán, quan điểm của Duy Thức không căn cứ trên một nền tảng vững
chắc hay một nhận thức đáng giá. Thậm chí nếu chúng ta cố
gắng để thực tậpthiền quán và làm cho chính chúng ta quen
thuộc với những khái niệm của tính không và vô ngã, chúng
ta không thể phát triển tâm thức chúng ta đến một thể trạng vô
giới hạn. Vì lý do này, quan điểm hay ý nghĩa của tính
không hay vô ngã không phải nông cạn (như được trình bày bởi
những trường phái Tỳ Bà Sa) cũng không chỉ là giả tạo tinh thần (như
trong Duy Thức Tông).
Dấu ấn thứ tư là "niết bàn là hòa bình" (niết
bàn tịch tĩnh). Một sự diễn dịch sát nghĩacách sử dụng của Tây
Tạng là "tính siêu việt của khổ đau là hòa bình". Ở
đây tính siêu việt của tình trạng không toại ý liên
hệ đến những cảm xúc phiền não. Chỉ một lần chúng ta vượt
quá ảnh hưởng của những cảm xúc phiền não là chúng
ta có thể đạt đến sự hòa bình và hạnh phúc. Do vậy, niết
bàn là hòa bình. Tuy nhiên, trong dạng thức ý nghĩa thật sự
của bản chất hay thực thể niết bàn, có những quan điểm khác
nhau. Theo Long Thọ, niết bàn liên hệ đến thể trạng chấm
dứt của những cảm xúc phiền não. Khi tâm thứchoàn toàn tịnh
hóa những cảm xúc phiền não, thể trạng ấy của tâm được gọi là niết
bàn.
Đấy chỉ là một sự giới
thiệu tóm lược đến ý nghĩa của bốn dấu ấn của Phật Giáo.
Bây giờ câu hỏi là: triết lý tư tưởng này được áp dụng đến
sự chuyển hóa và rèn luyện thật sự tâm thức như
thế nào?
Trong đời sống
hàng ngày của chúng ta, nhiều tư tưởng phóng túng, quấy rầy, tiêu
cựcsinh khởi bởi vì bốn loại nhận thức sai lầm. Thứ nhất, chúng
ta có khuynh hướng thấy những gì vô thường là thường; thứ hai, chúng
ta có khuynh hướng nhận thức những gì bất tịnh như thanh
tịnh và như điều gì đấy có một bản chất hay quan trọng; thứ ba, chúng
ta có thiên hướng thấy những con người vô ngã như
có sự tự tồn tại; và thứ tư, chúng tarất có thể xem những gì trong bản
chất khổ đau như một cội nguồn của hạnh phúc và hòa bình.
Ngay ở trình độ thông
thường, quy ước, tục đế, có những người có những người thấy biết sâu
xa hơn những người khác, những người lưu ý với những quan
tâm lâu dài hơn là với những mối bận lòng ngắn hạn. Khi chúng ta thấy
sự mâu thuẫn giữa những mối quan tâm lâu dài và ngắn
hạn, chúng ta thích chọn lựa những tầm quan trọng lâu dài. Chúng
ta có thể hy sinh những lưu ý ngắn hạn. Như một kết quả
của việc theo đuổinhững mối quan tâm lâu dài này, có những
khổ sở hơn.
Thí dụ, người tham
lam muốn nữa và hơn nữa. Một con người như vậy hoàn toàn mù
tịtvề khả năng của thân thể người ấy để sử dụng sự giàu
có. Thân thể tự nó có một khả năng giới hạn để tiêu
thụ phẩm vật. Có lẽ đây là một thí dụ ngớ ngẫn, nhưng ngay cả
một nhà tỉ phú cũng có một bao tử kích cở thông thường và chỉ có thể tiêu
hóa một khối lượng nào đó của thực phẩm. Rồi thì, nếu chúng ta lấy
những đồ trang sức hay nhẫn đeo, ngay cả nhà tỉ phú cũng chỉ có mười ngón tay!
Nếu chúng ta đeo một nhẫn kim cương cho mỗi ngón tay, tối
đa chúng ta cũng chỉ có đeo mười chiếc nhẫn mà thôi. Nếu chúng
ta đeo hai hay ba chiếc nhẫn trên mỗi ngón tay, thì trông rất xấu, có phải
không?
Do vậy, những người muốn
nữa và thêm nữa, bất hạnh thay, luôn luôn tiếp tục cố gắngđể
có thêm tài sản nhằm để sử dụng tài vật. Xa hơn nữa,
họ không bao giờ nghĩ về cái chết hay sự giới hạn của thân thể và đời
sống của chúng ta. Vì thế lối sống này, tích lũytài
sản một cách liên tục, làm cho chúng ta cảm thấy giống
như chúng ta chất chứa và tích lũy tài sản, như sự
sống của chúng ta sẽ không ngừng tiếp diễn mà không chạm
trán với cái chết và chúng ta sẽ có thể thụ hưởng sự giàu
sang ấy mãi mãi.
Khi chúng ta tiếp
tục tích lũy sự giàu sang và những thứ giành được mà không
có sựtoại nguyện, kết quả sẽ là gì? Chúng ta không thời gian để
thư giản thân thể vật lý hay sự hòa bình của tâm hồn. Tôi
nghĩ rằng nguyên nhân chính của việc chúng ta mong cầu sự giàu
sang và quyền lực hơn là để có một loại thõa mãn nào đấy. Ngoại
trừ chúng tacó một thái độ tinh thần thích đáng, không thì chúng
ta chỉ đang tìm cầu cho một loại mãn nguyện nào đấy.
Cách này, chúng
ta sẽ không bao giờ mãn nguyện, và điều gì đấy sẽ luôn luôn sai
lạc. Những người như vậy không có hạnh phúc và vững vàng tinh
thần. Thông thường, chúng ta khao khát và đánh giá cao đời
sống của một tỉ phú nhưng nếu chúng ta xem tình trạng tinh
thần của họ gần gũi hơn, thì họ có rất nhiều lo lắng, băn khoăn, ganh
tỵ, và những thứ khổ đau khác. Tệ hơn tất cả là do bởi sự không toại
ý, đôi khi họ không ngần ngại để dùng những phương pháp sai
quấy hay làm tổn hại hay bóc lột những người khác. Vậy
thì đâu là kết quả? Cuối cùng, quý vị sẽ tạo thêm kẻ thù và
mang tai tiếng. Chúng ta sẽ không toại nguyện vào lúc
cuối do bởi khao khát này. Chúng ta sẽ phải chết với sự ô
danh.
Một vấn nạn khác
là sự gia tăng khoảng cách giữa giàu và nghèo ở tình trạng toàn
cầu lẫn lối sống xa hoa và tiêu phí bạc triệu, trong khi những
kẻ khác sống trong cùng hành tinh đói khát và một số chết đói.
Đây là một tình trạng vô cùng khó khăn. Và đâu là kết quả của
khoảng cách này? Ngoài đau khổ tinh thần, có nhiều tội ác, xáo
trộn, và bạo động thân thể hơn. Khoảng cách khổng lồ giữa giàu
và nghèo không chỉ sai sót lương tâm mà cũng là nguồn cội của nhiều rắc
rối.
Để nói về những vấn
nạn này, chúng ta cần thiền quán về vô thường và bản
chất khổ đau của sinh tử luân hồi. Chính sự hiện hữu của thân
thể này, sự tồn tại của đời sốngchúng ta, thật sự là ở dưới ảnh
hưởng hay khống chế của những cảm xúc phiền não. Một khi chúng
ta nhận ra rằng khổ đau chính là bản chất của hiện hữu,
nó sẽ giúp chúng ta giảm thiểu khao khát vô lý của chúng
ta đối với mọi thứ.
Do vậy, khái niệm tính
không là một nhân tố căn bản. Nếu chúng ta phân tích khái
niệm này một cách thích đáng và thẩm nghiệm nó, một cách đặc
biệt khi chúng ta trở nên liên đới trong những cảm
xúc tiêu cực một cách mạnh mẽ, rồi thì đối tượng (cho dù mangbóng
dáng của thù hận, luyến ái, hay ganh tỵ) xuất hiện như
điều gì đấy rất cụ thể. Tại một thời điểm đặc thù khi chúng ta tăng
cường những cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ như vậy, chúng ta có
khuynh hướng thấy rằng đối tượng đặc biệt ấy một trong hai cách. Một
mặt, chúng ta thấy nó như điều gì đấy cực kỳ hấp dẫn, xinh
đẹp, và tồn tại từ phía chính nó. Mặt khác, chúng ta có
khuynh hướng thấy nó hoàn toàn tiêu cực và xấu xí, với loại xấu
xí và hiện hữu một cách tiêu cực từ chính nó.
Do vậy, do bởi những cảm
xúc phiền não này, chúng ta có khuynh hướng chấp trướcmột
cách mạnh mẽ vào một đối tượng đặc thù nào đấy. Trong vài trường hợp, thực
hànhtừ bi có thể giảm thiểu một cách gián tiếp một cảm
xúc phiền não, nhưng chúng ta không thể chiến đấu một cách trực
tiếp với chúng. Thay vì thế, chúng ta có thể sử dụng tuệ
tríthấu hiều thực tại căn bản là: tính không. Chỉ có loại thông
hiểu và cảm nhận này mới có một tác động trên những cảm xúc phiền
não này. Dĩ nhiên, chúng ta có thể nghiên cứuvề điều
này chỉ qua những kinh nghiệm trực tiếp.
Cuối cùng, chúng
ta sẽ phát sinh một cảm nhận rằng có thể tiêu trừ những cảm
xúcphiền não này. Chúng ta làm điều này qua sự thấu hiểu và thiền
chỉ (shamatha). Thể trạng tinh thần ấy, nơi mà tất cả những cảm
xúc phiền não bị tiêu diệt hoàn toàn, được gọi là niết
bàn. Nếu quý vị thiền tập một cách thích đáng, thấu hiểu và liên
hệ tất cả những chủ đề này, thì điều này có thể được sử
dụng để tăng cường một loại niềm tinvững chắc nào đấy.
Cũng trong phạm
vi này mà Đức Phật đã thuyết giảng về Bốn Chân Lý Cao
Quý. Nếu quý vị thiền tập trên hai chân lý khổ đau và nguyên
nhân của nó, sự băn khoăn và rầu buồn của quý vị gia tăng.
Nhưng quý vị thấy đấy, Đức Phật không dừng lại ở đấy. Có hai
chân lý nữa: sự chấm dứt khổ đau và con đường hay phương
pháp để đạt đến sự chấm dứt ấy. Đức Phật đã
bắt đầu bằng giải thích rằng chính bản chất của sự tồn
tại là khổ đau, nhưng cùng lúc, Ngài cũng đã chỉ rằng có một sự thay
đổi.
Vậy thì mục tiêu chính
của việc thiền quán trên khổ đau là để trau dồi một lòng quyết
tâmđể đạt đến niết bàn. Nếu không có khả năng để đạt
đến niết bàn, thì tốt hơn là đừng nghĩ về khổ đau và thay vì thế
chỉ thoải mãi rượu chè, hay bất cứ thứ gì quý vị thích. Thế đó sẽ khá hơn nhiều. Tuy
nhiên, nếu có một sự thay đổi, một khẩ năng để loại trừ những tình trạng rắc
rối này của tâm thức và cảm xúc, thì thật sự đáng để thực
hiện một nổ lực. Đó là việc rèn luyện tâm thức như thế nào.
Sự thực tập về từ
bi, có một ý thức về người khác, lợi lạc vô biên cho
chính chúng ta. Dĩ nhiên, cuối cùng, những chúng sinh khác
cũng được lợi ích. Do thế, Đại Sư Tông Khách Ba nói một
cách đúng đắn rằng, khi chúng ta phát triển từ bi và vị
tha, sự tập trung chínhyếu của chúng ta là làm lợi ích và
giúp đở người khác, nhưng đấy là quý vị, người thực hành, sẽ nhận được
những lợi lạc lớn lao nhất.
Vì vậy, việc thực
hành và thiền quán về từ ái và bi mẫn hoàn thành mục
tiêu cho đời sống của chúng ta và cho những chúng
sinh khác. Sự thực hành và thiền quán như vậy, những
điều làm cho tâm thức chúng ta quen thuộc với việc việc
trau dồi từ ái và bi mẫn, không phải là điều gì đấy nên giới hạn chỉ
trong những người tín ngưỡng. Ngay cả những người không tín ngưỡng,
nó cực kỳ quan trọng để phát triển một thói quen và những phẩm chất tích
cực như vậy của tâm thức. Nó mang đến hạnh phúc cho chúng
tavà hạnh phúc hay hòa bình cho những chúng sinh khác. Nó liên
hệ tương quan và phụ thuộc hoàn toàn trên việc phát triển từ
ái và bi mẫn.
Thực hành từ bi, quan
tâm đến người khác và chia sẻ những rắc rối của họ, là đặt nền
tảng cho một đời sống hạnh phúc không chỉ ở trình độ cá
nhân, hay cộng đồng mà cũng là cho toàn thể nhân loại. Vì
thế, thúc đẩy những giá trị căn bản này của nhân
loại là rất quan trọng. Cũng thế, đấy là trách nhiệm cho
mỗi người bởi vì tương lại của nhân loại là hoàn toàn nằm
trong tay chúng ta.
Như những người Phật
tử, chúng ta tin tưởng trong cầu nguyện, thiền tập, và
sự gia hộcủa các bậc cao siêu. Có những bậc cao siêu có khả năng để gia
hộ nhưng tác độnggiới hạn. Có vô số Chư Phật và Bồ Tát luôn
luôn cầu nguyện cho chúng ta, nhưng, tuy thế, điều
kiện của chúng ta vẫn hoàn toàn khó khăn. Chúng
ta vẫn ở trong cõi luân hồisinh tử.
Vì thế tôi luôn luôn
nói với những người anh chị em của tôi rằng hành động là quan trọng
hơn cầu nguyện. Chúng ta phải thực hiện một nổ lực.
Đôi khi, tôi nghĩ rằng nói về từ bichỉ đơn thuần là phụng
sự bằng đôi môi. Tôi thật sự cảm phục những cá nhân hay
đoàn thể nào liên hệ trong việc giúp đở những người bần cùng và hoạt
động trong lãnh vựcgiáo dục, v.v... Những người này đang áp dụng từ
bi trên một trình độ thực tiển. Tôi chỉ ngồi đây trên một bảo
tòa thoãi mái và nói về từ bi! Có lẽ đây là đạo đức giả.
Do vậy hành động là
rất quan trọng. Nhằm để có thể áp dụng một hành động không mệt mõi, chúng
ta cần một lòng quyết tâm kiên cố. Chúng ta phải nên
có một cái nhìn rõ ràngvề mục tiêu của chúng ta. Điều này
sẽ cho phép chúng ta thực hiện một nổ lực tự nhiênvà
không mệt mõi. Nếu những mục tiêu không rõ ràng, hay có một sự
mù mịt nào đấy, rồi thì những phương pháp chướng ngại sẽ được sử
dụng và điều này thậm chí sẽ tạo nên rối rắm hơn!
Những khái niệm triết
lý phức tạp này không nên là kết quả trong việc chúng ta tiếp
nhậnmột phương pháp ngoằn ngoèo cho đời sống. Thay vì thế,
qua học hỏi những nhận thứctriết lý này, chúng ta có
thể phát triển một lối mòn sáng tỏ trên bản đồ. Rồi thì chúng ta sẽ
biết cất bước như thế nào để đến nơi.
Cuối cùng, chúng
ta muốn phát sinh tâm giác ngộ. Thông thường, điều này được hoàn
tất bằng việc tích tập công đức và tịnh hóa những điều bất
thiện bằng việc Thực Hành Bảy
Điều Quán Nguyện[1].
Nhiều người trong chúng
ta thuộc những truyền thống khác nhau. Có lẽ chúng ta có
thể tưởng tượng tất cả những đạo sư cổ xưa như Giê-Su Ki-Tô hay Mahavira[2]. Chúng
tacó thể quán tưởng về các ngài và hứa nguyện phụng sự và
hổ trợ những chúng sinhkhác. Trong cách này, đời sống của chúng
ta sẽ trở nên đầy đủ ý nghĩa.
Chỉ phấn đấu cho sự
sống còn của chính mình là không đủ. Những con voi có khả năng để sống còn. Tương
tự thế, thú vật và côn trùng có một loại bản năng cho
sự tồn tại của chúng. Như con người chúng ta có sự thông
minh kỳ diệu này. Sử dụng điều này cho sự tồn tại của
một người là lãng phí. Thay vì thế, đây là tặng phẩm của thông minh nên
được dùng cho chủ nghĩa vị tha. Rồi thì đời sống của chúng
ta sẽ thật sự trở nên đầy đủ ý nghĩa.
Theo quan điềm của Đạo
Phật, đời sống của chúng ta trên hành tinh này kéo dài tối
đa là một trăm năm. Nó giống như một chuyến nghĩ hè du lịch. Từ những chiều sâu
của không gian huyền bí, chúng ta đến đây để ở lại chỉ một
trăm năm thôi. Khi chúng ta so sánh với hàng tỉ và hàng tỉ năm
của ánh sáng, chúng ta tồn tại một trăm năm là quá tầm thường!
Thế nên, sử dụng đời
sống con người ngắn ngủi này để tạo thêm rắc rối và khổ đau
là vô lý và vô nghĩa. Nếu một khách du lịch người Âu hay Mỹ đến Ấn
Độ trong chỉ một tuần và trong thời gian ấy tạo nên rắc rối bất
cứ nơi nào họ đến, điều đó sẽ là vô vị và ngớ ngẫn. Tương tự thế, chúng
ta đã đến hành tinh này trong một cuộc viếng thăm ngắn ngủi, vì vậy lần
này phải nên được sử dụng một cách đầy đủ ý nghĩa. Điều này có
nghĩa là giúp đở người khác bất cứ nơi nào có thể. Nếu quý vị không thể hổ trợ
người khác, thì đừng nên tạo đớn đau hay khổ sở cho kẻ khác.
Để phát sinh tâm
giác ngộ, tôi muốn chúng ta đọc ba bài kệ này ba lần
cùng với nhau:
Với nguyện ước giải
thoát tất cả chúng sinh
Con luôn luôn tiếp
nhận quy y
Đến Phật, Pháp, và
Tăng
Cho đến khi đạt
được sự giác ngộ hoàn toàn
Được làm cho nhiệt
tình bởi tuệ trí và từ bi
Hôm nay trong sự hiện
diện của Chư Phật
Con phát sinh tâm vì
sự tỉnh thức hoàn toàn
Vì lợi ích của
tất cả chúng sinh
Cho đến khi không
gian còn hiện hữu
Cho đến khi chúng
sinh còn tồn tại
Cho đến lúc ấy,
con nguyện cũng sẽ hiện diện
Và xua tan những khổ
đau của thế gian.
Những người muốn thực
hành lòng vị tha (và, dĩ nhiên là những Phật tử) phải
nên đọc những điều này như một phần trong sự cầu nguyện hàng ngày của
họ. Chúng ta phải thiền quán trên những điều này, đặc
biệt là bài kệ cuối. Tất cả ba bài kệ này là một phần
trong sự cầu nguyện và thiền quán hàng ngày của tôi. Mỗi
ngày, tôi lập lại và thiền quántrên những dòng này. Bài kệ chót
rất năng lực. Khi tôi gặp phải những tình cảnh không vui hay
có những cảm xúc phiền não tiêu cực, tôi nhớ lại điều này. Tôi
lập lại và rồi quán chiếu. Điều này lập tức khôi phục sự hòa
bình trong tâm thức tôi. Rất hữu dụng. Ngay cả những người không Phật
tử có thể nghĩ về câu cuối cùng.
HỎI & ĐÁP
HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, tại sao Đức
Phật Thích Ca đã im lặng một tuần lễ sau khi Ngài
đã trở nên giác ngộ?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Có một câu
chuyện của Đức Phật đã duy trì sự im lặng và
không thuyết giáo trong bảy tuần. Đức Phật, theo kinh điển, đã nói
rằng, "Ta đã tìm ramột giáo huấn, một con đường thậm
thâm, hòa bình, và tự do khỏi mọi tác tác, vô vi. Ta đã tìm
thấy một giáo huấn như cam lồ. Nhưng nếu ta cố gắng để giải
thích và giáo hóangười khác, không ai có thể thấu hiểu. Thế nên, ta
sẽ tiếp tục im lặng và ngơi nghĩ trong rừng". Vào lúc
ấy, không có phương tiện truyền thông nên không có ai có thể
tuyên cáo sự giác ngộ của Đức Phật. Vì vậy, sau sự giác
ngộ của Ngài, có một sự trì hoãn dài. Dần dần, ngày càng
nhiều người trở nên nhận thức rằng Đức Phật Thích Ca có
một loại kinh nghiệm đặc biệt nào đấy. Sau đó một số người đã
bắt đầu tiếp nhận giáo huấn từ Ngài và hỏi đạo với
Ngài.
HỎI: Ngài có thể diễn tả thức
một cách đầy đủ không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Cách duy nhất để
biết thức một cách đầy đủ là qua trải nghiệm. Đôi khi tôi dùng một phương
pháp đặc thù. Tôi chỉ cố gắng ở trong trạng thái "vô
niệm[3]"
của tâm và rồi thì, cuối cùng có một loại cảm nhận trống không nào
đấy. Nếu chúng ta ở đấy, cuối cùng chúng ta sẽ kinh
nghiệm hoàn toàn sự trong sáng và thanh tịnh. Từ thể
trạng của trong sáng và thanh tịnh ấy, chúng ta có
thể cũng đi xuyên qua những kinh nghiệm và hiện tướng khác
nhau. Do vậy, loại bản chất thuần khiết và trong sáng này
của tâm chỉ có thể được thấu hiểu qua sự thực tập lập đi lập lại và liên
tục của thiền quán. Nó là điều gì đấy mà không thể đơn giản giải
thích trong ngôn từ.
HỎI: Có phải nguyên nhân trọng
yếu là một với nghiệp nhân? Chúng ta phá vở vòng nghiệp báo như
thế nào?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Ngoại trừ quý vị có
thể làm chấm dứt si mê, mà nó là mắc xích đầu tiên của mười hai
nhân duyên, bằng không thì chúng ta không thể làm chấm dứtnghiệp
báo. Ngay cả một chúng sinh chứng đạo như một vị a la hán (một
bậc hoàn toànphá tan mọi cảm xúc phiền não), dư nghiệp[4] vẫn
còn. Trong phạm vi này, Thích Lượng Luận, đã nói rằng một người
đã vượt quá vòng luân hồi, một người đã vượt khỏi những thèm
khát và dục vọng trong cõi luân hồi, một người như vậy có
thể thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Đây là bởi vì một
người như vậy đã làm tiêu tan tất cả những cảm xúc phiền
não. Một khi chúng ta đã hoàn tất điều ấy, không có nguyên
nhân đầu tiên cho việc tích tụ những hành vi nhiễm ô.
HỎI: Có thể đạt đến giác
ngộ trong thân thể người nữ không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Ô, chắc chắn.
Có một số khác biệt. Cũng có một số diễn dịchkhác tùy theo những
trường phái tư tưởng Phật Giáo, kể cả Du Già Mật Giáo (Yoga
Tantra) và Kinh Thừa Hiển Giáo. Nguyên tắc đầu tiên của việc giác
ngộ luôn luôn phải là trên căn bản của một chúng sinh nam
giới chứ không phải một nữ nhân. Tuy nhiên, theo hệ thống Phật
Giáo vô thượng, Đại Mật Điển Tantra Yoga Tối Thượng, ngay
cả những nữ nhân cũng có thể trở nên giác ngộ. Do vậy, dĩ
nhiên, chúng ta lưu ý điều ấy như một giải thích tối
hậu hay sau cùng.
HỎI: Nếu không có ngã, cái gì hay ai
sẽ đi từ kiếp sống này đến kiếp sống khác?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Khi Đạo Phật nói
về vô ngã, không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại của ngã, nhưng
phủ nhận tự ngã như điều gì đấy thường còn và không thay đổi. Phật Giáo phủ
nhận sự tồn tại của tự ngã như thế. Đối với Đạo Phật, tự ngã chỉ
được mệnh danh trên sự tương tục của tâm thức. Tâm thức là
không có bắt đầu và kết thúc. Do vậy, tự ngã cũng vô thỉ vô chung. Từ vô
thỉ nó đi đến Quả Phật. Tự ngã vẫn ở đấy ngay cả ở trình độ Phật Quả. Long
Thọ nói rằng ngay cả tỏng đại niết bàn, tự ngã vẫn ở đấy, Đức
Phật vẫn ở đấy, và Tâm Đức Phật cũng vẫn ở đấy.
HỎI: Tôi không thỏa mãn với câu trả
lời của ngài. Có phải đây cũng là một loại tham lam?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Đấy không phải là tham
lam.
HỎI: Ngài có tin tưởng trong
những thiên thần không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Thiên thần có
một hình thức khác biệt về đời sống và là một loại tâm
linh khác. Chúng tôi thật sự tin tưởng trong những
dakini, và nếu dakini[5] cũng
được xem là những thiên thần, thì có rất nhiều dakini.
HỎI: Điều gì liên kết tâm/thân
hay thân/tâm?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Trình độ thô
của tâm thức. Trình độ thô của tâm thức xuất hiệndo
bởi thân thể. Nó sẽ không tồn tại nữa khi thân thể ngừng
biểu hiện chức năng. Nhưng, tại một trình độ vi tế hơn, một
loại tâm khác hay thức khác duy trì. Thí dụ, khi chúng ta đang
trong tình trạng thức giấc khỏi giấc ngũ, có một loại trình
độ nào đấy của thức, một loại trình độ tâm thể hiện chức
năng. Khi chúng ta đang ngũ, cho dù giấc ngũủsâu hay một giấc ngủ với
giấc mơ, một trình độ của tâm hay thức vẫn còn thể hiệnchức năng.
Xa hơn nữa, trong
giấc ngủ sâu, không có mộng, một trình độ tâm thức khác hiện
hữu. Khi chúng ta ngất và không thở, nó trở nên vi tế hơn.
Trình độ vi tế nhất
của tâm thức xuất hiện khi chúng ta chết. Một khi tim
ngừng đập và não bộ ngừng thể hiện chức năng, sau đó trình độ vi
tế nhất của tâm thức hoàn toàn biểu hiện. Sự biểu thị của
điều này là những cá nhân nào đấy được tuyền bố là đã chết lâm sàng, tuy
thế thân thể của họ không phân hủy và vẫn tươi nhuận. Trong vài trường
hợp,thân thể duy trì như thế trong hai đến ba tuần. Chúng
tôi tin tưởng rằng tâm thức vi tế vẫn còn ở đấy trong thân
thể và do bởi điều này, thân thể không bị phân hủy.
Do vậy, có nhiều trình
độ của tâm thức. Một số lệ thuộc nặng nề vào thân thể trong
khi những thứ khác lệ thuộc nhiều hơn hay ít hơn.
HỎI: Điều gì xảy
đến sau khi niết bàn?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Tùy thuộc vào
loại niết bàn nào mà quý vị chứng được. Thí dụ, nếu quý vị đã thực
chứng một loại niết bàn chỉ đơn thuần chấm dứt những cảm
xúcphiền não, quý vị vẫn phải đạt đến giác ngộ hay Quả Phật.
HỎI: Chúng ta vượt thắng thù hận như
thế nào?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Sự thực tập quan
trọng nhất trong sự liên hệ này là suy nghĩ về những bất
lợi của tiêu cực hay thù hận. Qua loại phân tích này mà chúng
ta có thể thấu hiểu những lợi lạc của việc không tăng cường thù
hận. Khi chúng tôi nói về việc chinh phục thù hận, nó có
thể được hiểu ở hai trình độ: thứ nhất, không cho phép một cơ
hội để thù hận sinh khởi trong đời sống hàng ngày của chúng
ta, và thứ hai, suy nghĩ về bản chất tàn phá và những kết
quả của thù hận.
Bằng việc quán
chiếu trong cách này, chúng ta có thể tự vượt xa và không cho
phép thù hận sinh khởi trong đời sống hằng ngày của chúng
ta. Nhằm để nhổ gốc rể hay hoàn toàn loại trừ thù hận, chúng ta phải đi
vào trong những sự thực tập tâm linh sâu hơn. Một cách chính
yếu đây là sự thực tập nhất tâm, cũng còn gọi là "tịch tĩnh
bất động", và đạt đến một tuệ giác nội quán sâu
hơn vào trong tính không hay thực tại tối hậu.
Thông thường, tôi hỏi:
những gì là lợi ích của những cảm xúc phiền não này
như thù hận và ganh tỵ? Chúng làm tổn hại cho tâm hòa bình của chúng
ta. Chúng thật sự là những kẻ thù của chúng ta. Những kẻ
thù ngoại tại có khả năng tấn công và tàn phá sự hòa bình của tâm
thức trong một cách giới hạn. Những kẻ thù ngoại tại không
thể phá hoạisự hòa bình của tâm thức chúng ta, nhưng ngay khi
một cảm xúc như thù hận sinh khởi, kẻ thù nội tại này
sẽ cướp đi mất niềm an bình của tâm hồn chúng ta.
Cũng thế, những kẻ
thù nội tại như vậy làm tổn hại sức khỏe của chúng ta. Thí
dụ, ba năm trước đây, tôi đã gặp một nhà khoa học ở New York. Một nhà y khoa đã
có một thuyết trình ở đấy ông làm rõ rằng những người thường sử
dụng chữ 'tôi", "của tôi", ..., thì dễ có hiểm họa khổ đau
vì một cơn nhồi máu cơ tim. Điều này khá đơn giản.
Khoảnh khắc mà chúng
ta nghĩ về chính chúng ta - tôi - chúng ta rất là ích
kỷ và hẹp hòi. Phạm vi hoạt động của chúng ta trở
nên rất nhỏ. Dưới những hoàn cảnh như vậy, ngay cả những vấn đề nhỏ
bé cũng xuất hiện ra to lớn, không thể chịu đựng nổi, và
làm phát sinh nhiều lo lắng và băn khoăn hơn. Về mặt khác, thời điểm chúng
ta nghĩ về lợi ích của những chúng sinh khác, tâm tư chúng
ta tự động rộng mở ra.
Trong sự thực
hành Phật Giáo, chúng ta nghĩ về vô lượng chúng sinh và
những rắc rốicùng khổ đau của họ, không chỉ những khổ đau loại thứ
nhất (khổ khổ) và thứ hai (hoại khổ) mà cũng cả loại khổ thứ ba (hành khổ). Do
bởi điều này, chúng ta trở nên thấu hiểu và quan tâm hơn
và tâm thức chúng ta trở nên rộng rãi bao la.
Thái độ tinh thần và quan
điểm của chúng ta làm nên một sự khác biệt lớn lao. Những cảm
xúc phiền não làm tồn hại sức khỏe và những cảm xúc tiêu
cực này phát triển một cách lớn mạnh năng động trong tâm
hồn. Những con người như vậy luôn luôn tạo nên rắc rối bất
cứ nơi nào họ đến. Trái lại, nếu chúng ta với tâm tư hòa bình
hay tâm hồn từ bi sẽ có nhiều bạn hơn. Bất cứ nơi nào chúng
ta đến, sẽ có không khí hòa bình. Ngay cả những thú vật cũng cảm
kích điều ấy.
Mục tiêu cuộc sống
của chúng ta là để cảm nhận hạnh phúc, vui sướng, toại
nguyện, và hòa bình. Nhằm để đạt đến những điều này, lệ thuộc rất
nhiều trên thái độ tinh thần của chúng ta hơn là tiền
bạc, quyền lực, hay những thứ ngoại tại. Vì thế hãy cố gắng và
phân tích những thứ này. Đây là cách tốt nhất để chuyển hóa thái độ tinh
thần của chúng ta.
HỎI: Nếu chúng ta quan tâm đến gia
đình chúng ta hơn những chúng sinh, có phải như vậy là ích
kỷ không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Có hai loại quan
tâm. Nếu quý vị chỉ nghĩ về gia đình một cách độc chiếm mà
thôi và không quan tâm đến những chúng sinh khác thì đấy là luyến
ái hay dính mắc. Nhưng nếu chúng ta thực hành việc quan
tâm đến tất cả chúng sinh, gia đìnhchúng ta cũng trở
thành một bộ phận của những chúng sinh này. Cũng thế, chúng
ta có thể giao tiếp một cách trực tiếp trên căn bản này khi chúng
ta chăm sóc những thành viên trong gia đình chúng ta. Chúng
ta bao gồm ngay cả chúng ta, đúng không?
Điều ấy là cần
thiết và tốt đẹp. Trong thực tế, đôi khi chúng ta cầu
nguyện, chúng tamuốn lợi lạc đến tất cả chúng sinh, ngoại
trừ hàng xóm của chúng ta. Vì thế chúng taphải chiến đấu! Việc cầu
nguyện chi cho những chúng sinh ở xa xôi là một sai lầm.
Khi chúng ta cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, hành động
của chúng ta ảnh hưởng, lợi lạcđến những thành viên trong gia
đình và láng giềng trước nhất. Vì vậy hãy cầu nguyệncho
hàng xóm của chúng ta; chúng ta có thể nói một cách đúng
đắn rằng chúng ta đang thật sự thực hành vì lợi ích của
tất cả chúng sinh.
HỎI: Như một giáo viên, tôi có thể dạy
học trò của tôi về từ ái và bi mẫn như thế nào?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Qua hành động của
quý vị! Qua gương mẫu của quý vị - không chỉ bằng lời
nói. Vì vậy quý vị phải nghĩ và phát triển một sự quan tâm chân
thành về lợi ích của học trò của quý vị, tương lai lâu
dài của chúng. Quý vị có thể giải thích cho học trò của quý vị
về giá trị của ý thức ân cần, từ bi, và bao dung.
Một nhận thức rất quan trọng là đối thoại, tinh thần của
đối thoại, và sự hòa giải bởi vì trong xã hội loài người luôn
luôn có xung đột và mâu thuẩn.
Mâu thuẩn tự nó là
tốt. Thí dụ, Bốn Chân Lý Cao Quý cũng là những sự mâu thuẩn - vì
vậy những mâu thuẩn có thể đem đến sự phát triển hơn. Trái lại, mâu
thuẩn có thể là tiêu cực và đưa đến xung đột, máu đổ, và đấu
tranh. Giáo dục là một phương pháp rất quan trọng để cung
cấp kiến thức và sự tỉnh thức cùng với những giá trị của nhân
loại.
HỎI: Có phải tính không là
giống như vô ngã không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Có lẽ từ ngữ "tính
không" có một ý nghĩa rộng rãi hơn bởi vì khi chúng ta dùng
chữ "vô ngã" nó có thể liên hệ không chỉ vấn đề thiếu
vắng sự tồn tại cố hữu (vô tự tính) của một đối tượng nhưng cũng là
sự thiếu vắng một thái độ tự yêu mến.
HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, thông
điệp nào ngài muốn gởi đến thiên niên kỷ mới?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Nếu chúng ta ôn
lại thế kỷ trước, chúng ta thấy có nhiều sự thay đổi đã xảy ra trên
hành tinh này. Một số thay đổi là tích cực, trong khi những thứ khác là tiêu
cực. Thế nào đi nữa, tôi tin rằng do bởi những kinh nghiệm khác
nhau của họ, toàn thể nhân loại đang trở nên trưởng thành hơn.
Tôi nghĩ tâm tư chúng ta rộng mở hơn. Cũng thế, chúng ta có
một sự tỉnh thức hơn về những hậu quả về lâu về dài của
những hành động của chúng ta, kể cả những ảnh hưởng của kinh tế.
Vì thế có hy vọngcho một tương lai tốt đẹp hơn. Nó tùy
thuộc hoàn toàn trên những hành động của chúng ta.
Constitution Club Lawns, 1999
Tuệ Uyển dịch
Nguyên bản: The Four Seals in Buddhism trích từ
quyển Many Ways to Nirvana
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét