BẢY ĐIỂM THIỀN ĐỊNH
DỰA VÀO QUY LUẬT NGUYÊN NHÂN HẬU QUẢ
NHỮNG LỜI KHUYÊN GIÚP CHÚNG TA SỐNG VỚI ĐẠO PHÁP
(La méthode de cause à effet en sept points -
Conseils de méditation pour vivre le bouddhisme)
Đức Đạt-lai Lạt-ma
Hoang Phong chuyển ngữ
Phật
giáo Tây Tạng hay Kim Cương Thừa nói chung rất thực tế và cụ
thể, giúp người tu tập trực tiếp biến cải tâm thức mình
và đạt được giác ngộ. Dưới đây là một bài giảng ngắn của Đức Đạt-lai
Lạt-ma về một trong các phép luyện tập thiền định chủ yếu và thiết
thực của Phật giáo Tây Tạng, là "Phép thiền định gồm
bảy điểm" do Atisha (A-đề-sa) đề xướng.
Atisha (982-1054) là một vị đại sư xuất thântừ đại học Nalanda,
sống vào một thời kỳ nhiễu nhương dưới sự xâm lược của các
đạo quân Hồi giáo, từ thế kỷ thứ X đến XII, và đây cũng là thời
kỳđánh dấu sự suy tàn của Phật giáo trên đất Ấn.
Atisha vượt biển đến quần đảo Sumatra của Inđônêxia và lưu lại đây 12 năm, thụ
giáo với một vị thầy lỗi lạc là Dharmarakshita và học được phép thiền
định Lojong, một phép luyện tập mang lại "tâm thức giác ngộ" hay
"bồ-đề tâm" (bodhicitta). Ông trở về Ấn năm 1025 và
giảng dạy tại đây, đến năm 1042 thì được mời lên Tây Tạng để giúp phục
hồi Phật giáo tại xứ sở này. Tại đây ông đã triển khai và hệ
thống hóa phép luyện tập Lojong đưa đến sự hình thành của phép luyện tập
mới là Larim, nêu lên thật chính xác và minh bạch các giai
đoạn luyện tập tuần tự đưa đến sự giác ngộ.
Trong phép luyện tập này Atsha phân loại người tu tập theo ba cấp
bậc:
- cấp bậc thấp
gồm những người tu tập còn kém, với lòng nhiệt tình thấp và tầm nhìn
hạn hẹp, chỉ mong muốn được tái sinh trong những hoàn cảnh thuận
lợi hơn.
- cấp bậc trung bình với những người có tầm nhìn xa
hơn và lòng nhiệt tình cao hơn, có nghĩa là mong muốn được giải thoát khỏi
chu kỳ của những sự hiện hữu và hòa nhập vào cõi niết bàn.
- cấp bậc cao gồm những người có tầm nhìn thật rộng
lớn, với một lòng nhiệt tình vô song, mong muốn đạt được bồ-đề
tâm để trở thành một vị Phật toàn vẹn, hầu có thể giúp đỡ
tất cả chúng sinh.
Trong mỗi cấp bậc đều có các phép luyện tập và các chủ đề thiền
định riêng. Trong số các phép luyện tập của cấp bậc cao có một phép gọi là "Giáo
huấn về bảy điểm giúp người tu tập nhìn vào tất cả chúng sinh đều
là mẹ mình". Phép luyện tập này dựa vào ý niệm cho
rằng qua vô số kiếp sống của mình trong chu kỳ xoay vần bất tận của
các sự hiện hữu, tất cả chúng sinh đều có thể từng là mẹ mình
trong quá khứ, và đây cũng là chủ đề bài giảng của Đức Đạt-lai
Lạt-ma dưới đây.
Sở
dĩ phải dài dòng như trên trước hết là để điểm qua vị trí của
bài giảng này trong kinh sách vô cùng phong phú của Phật
giáo Tây Tạng, sau đó là nhấn mạnh đến tính cách cụ thể, thiết
thực nhưng đồng thời cũng hết sức chặt chẽ và chính
xác trong các phép luyện tập của Phật giáo Tây Tạng nói chung.
Bài chuyển ngữ dưới đây được dựa vào một tư liệu do bà
Sofia Stril-Rever vừa đưa lên trang mạng Buddhaline. Bà là một học giả và
nhà văn, đệ tử của Đức Đạt-lai Lạt-ma, được Ngài giao phó cùng
với một số nhà sư và học giả Phật giáo khác, soạn thảo bản "Tuyên
Ngôn về Trách Nhiện Toàn Cầu" mà chính Ngài cũng đã duyệt lại
trước khi phổ biền.
***
Giai đoạn chuẩn bị: phát huy
thể dạng bình lặng
Nếu muốn luyện tập về quy luật nguyên nhân hậu quả dựa vào bảy
điểm thiền định thì trước hết phải phát huy một thể dạng tâm
thức bình lặng (equanimity/bình thản, tĩnh lặng, thăng bằng). Khi
chưa thực hiện được thể dạng này thì các bạn sẽ không thể tạo ra cho
mình một tầm nhìn vị tha và vô tư được. Thiếu sự bình lặng
đó thì các bạn sẽ khó tránh khỏi thiên vị những người thân
thuộc và bạn hữu mình. Nếu muốn mang lại cho mình một thể dạng
bình lặng thật vững vàng thì các bạn phải ý thức được là
không nên có một thiển kiến, hận thù hay một sự bám víu nào
đối với bất cứ một ai, dù đấy là kẻ thù, bạn hữu hay một người hoàn
toàn xa lạ với mình.
Nhằm thực hiện căn bản đó đúng theo những lời hướng dẫn trong
tập luận "Các giai đoạn luyện tập trên Đường Giác Ngộ: Con
Đường Phúc Hạnh mang lại sự Hiểu BiếtToàn Năng" của
Panchen-lama Chökyi Gyaltsen (tức là tập luận "The Graded Stage of
the Path: A Blissful Path"/"Lam-rim bde-lam" của Ngài Ban-thiền
Lạt-ma thứ IV, 1570-1662), thì trước hết các bạn hãy hình
dung ra một người dưng hoàn toàn xa lạ với mình. Sau khi hình
ảnh người này hiện ra thật minh bạch, thì các bạn sẽ cảm
thấy không có một xúc cảm rõ rệt nào hiện lên với mình, không có
một sự cảm nhận thèm muốn hay hận thù nào, có nghĩa là mình hoàn
toàn dửng dưng (vô cảm và thờ ơ đối với con ngườixa
lạ ấy). Sau đó các bạn hãy liên tưởng đến một kẻ
thù (một người mà mình ghét cay ghét đắng chẳng hạn), thì tức
khắc một cơn giận hay sự thù hận sẽ bùng lên ngay trong tâm thức mình.
Sau đó các bạn lại gợi lên trong tâm trí mình hình ảnh một
người bạn hay một người thân thuộc trong gia đình, thì một thứ
xúc cảm quyến luyến và gắn bó nào đó sẽ tức khắc hiện
lên với mình.
(Tâm
thức là một giác quan, ba loại cá thể trên đây là các đối
tượng cảm nhận của nó. "Xa lạ", "kẻ thù" hay "thân
thuộc" là ba cách diễn đạt của tâm thức về ba cá
thểấy. Các sự diễn đạt này là kết quả phát sinh từ sự liên kết giữa
các cảm nhận của tâm thức về các cá thể trên đây và các
nghiệp tồn lưu bên trong tâm thức liên quan đến các cá thể ấy.
Sự diễn đạt này sẽ tạo ra các xúc cảm đủ loại bên trong tâm thức. Hình
ảnhmột người dưng không gây ra một xúc cảm nào đáng kể, bởi vì bên trong tâm
thứckhông hề có một nghiệp nào được ghi khắc từ trước, liên quan
đến cá thể hoàn toàn xa lạ này, "xúc cảm" nếu có
thì chỉ là các xúc cảm "dửng dưng". Trái lại nếu tâm
thức cảm nhận được hình dạng một cá thể liên hệ mật thiết với
các vết hằn của nghiệp bên trong nó - chẳng hạn như người này trước đây từng
gây ra những sự tổn thương hay oán hận- thì tức khắc các vết hằn
này sẽ tạo ra các tác động khiến tâm thức diễn đạt cá
thể này là một "kẻ thù", và sự diễn đạt đó sẽ tạo ra
các xúc cảm bấn loạn và tàn phá trong tâm thức. Ngược lại nếu là hình
ảnh một người mà mình yêu quý hay gần gũi với mình trong gia đình thì
các xúc cảm hiện lên sẽ là sự quyến luyến, bám víu hay
"thèm muốn". Ngay cả trường hợp chỉ cần tiếp xúc với
một người nào đó tuy "xa lạ" nhưng hao hao giống với một người mà
mình "quyến luyến", chẳng hạn như nghe thấy tiếng nói, trông thấy vóc
dáng, mái tóc hay gương mặt của người này thì cũng đủ để gợi lên cho mình các
xúc cảm giống như là mình gặp lại đúng người mà mình "quyến luyến"
trước đây. Điều này cho thấy "nghiệp" rất tinh tế và bén
nhạy, nó sẽ tức khắc hiện lên thành quả dưới hình thức xúc
cảm một khi nó gặp được cơ duyên phù hợp, xúc cảm này có thể đưa đến
sự hình thành của tư duy, tác ý trong tâm thức, hoặc ngôn
từ, cử chỉ hay hành động trên thân xác.
Đối với các cơ quan giác cảm khác cũng vậy, thí dụ mình
đang đói và đi ngang một tiệm phở, mùi phở và hình ảnh các miếng thịt
treo lủng lẳng ở tủ kính sẽ khiến mình thèm ăn. "Xúc cảm" thèm ăn -
tức bám víu, thèm khát - là sự thúc đẩy của bản
năngsinh tồn, phía sau bản năng đó là nghiệp của mình, trói buộc mình
với sự hiện hữu của chính mình. Thế nhưng nếu vừa ăn cơm xong thì
mình sẽ hoàn dửng dưng trước những thứ ấy.
Nói chung, đấy là các phản ứng khác nhau của tâm thức trong
cuộc sống thường nhật. Nếu biết ý thức, phân tích và theo dõi các phản
ứng đó hầu tìm hiểu nguyên nhâncủa chúng thì trước hết sẽ là
cách giúp mình nhìn thấy sự vận hành của nghiệp và các tác động của
nó bên trong tâm thức mình, sau đó cũng là một cách thiền định hướng
vào từng xúc cảm, tư duy và tác ý cùng ngôn từ và
hành động trên thân xác, giúp mình kiểm soát và chủ động chúng.
Kinh Satipatthana-Sutta/Kinh về sự Chú Tâm Tỉnh Giác gọi đó là
cách tập trung sự chú tâm tỉnh thức vào bốn lãnh vực là
thân xác, cảm giác, tâm thức và những gì hiện lên bên
trong tâm thức mình. Khi đã trở về được với tâm thức "từ
bên trong nó, không dựa vào bất cứ gì trong thế giới", thì dù
đang đói hay no, mùi phở và hình ảnh những miếng thịt treo lủng lẳng
cũng chỉ làm hiện lên trong tâm thức mình một cảm nhận duy
nhất là sự đau đớn của một con bò bị đập đầu và xẻ thịt, và ý
thức về bản chất vô thường, khổ đau và vô thực thể của
các hiện tương cấu hợp tạo ra chính mình. Sự cảm nhận đó tất sẽ khơi động trong
con tim mình một quyết tâm nào đó.
Những gì trên đây cho thấy là các thể dạng tâm thức có thể chỉ đơn
giản là các phản ứng phát sinh một cách tự động từ nghiệp và bản
năng, nhưng cũng có thể được tạo ra bởi sự quyết tâm của chính mình)
Trước kẻ thù thì các bạn sẽ cảm thấy một sự cách biệt,
một cảm tính hận thùhay ghét bỏ nào đó. Hãy tưởng tượng người Trung
Quốc là các kẻ thù của mình chẳng hạn, họ ra lệnh hủy diệt Dharma (Đạo
Pháp) không thương tiếc, gây tổn thương cho những người đồng
hương, cai trị xứ sở bằng sự độc đoán, bất chấp các phẩm tính căn bản của con
người, chẳng hạn như lòng tin và sự tín nhiệm. Các bạn hãy hình
dung ra các luận cứ nhằm biện minh tính cách chính đáng của
các xúc cảm tiêu cực trên đây của mình trước các hành vi đó
của họ. Quả thật họ đã gây ra không biết bao nhiêu đổ vỡ cho cuộc
sống này, thế nhưng trước đó thì họ có như thế hay không? Tất nhiên các bạn sẽ nhận
thấy là không, trong quá khứ họ từng mang lại nhiều điều tốt
đẹp cho mình và kẻ khác. Thế nhưng hiện nay thì họ chẳng những không còn
giữ được một chút lòng tin nào nơi Đạo Pháp mà còn làm tổn
thương đến thật nhiều người. Họ gần như không còn chủ động được
mình nữa. Tuy nhiên các khiếm khuyết đó đều là do vô minh, hận
thù, v.v. gây ra cho họ, nhưng tuyệt nhiên không phải là bản
chất tự nhiên của họ.
Các bạn đừng quên là kể cả tâm thức mình cũng không sao tránh
khỏi ảo giác, tuy không mang cùng một bản chất tàn phá như của
họ nhưng không phải vì thế mà kém ảo giác hơn. Do đó các bạn nên hiểu
rằng các phản ứng xúc cảm [tiêu cực] mà mình dán lên trán những người
mà mình xem là kẻ thù, không hề mang tính cách chính đángnào cả.
Đến đây chúng ta lại tiếp tục nhìn vào thái độ của
mình đối với những người thân thuộc và bạn hữu của mình. Có thể các
bạn nghĩ rằng đó là những người rất tốt, lúc nào cũng mang lại mọi điều tốt
đẹp cho mình, v.v. Họ đối xử tốt với các bạn đến độ các bạn cảm thấy nếu
cần thì mình cũng có thể hy sinh cả tánh mạng mình vì họ. Dù là
những người vô cùng tử tế với mình trong kiếp sống này thế nhưng
trong các kiếp quá khứ biết đâu họ cũng từng là kẻ thù của
mình, hoặc cũng có thể là những người đã gây ra cái chết cho mình trong các
kiếp sống trước đây của mình. Hoặc cũng có thể họ từng là những người thật hung
dữ, gieo rắc đau thương và tàn phá chung quanh họ. Vì thế không
có một lý do nào để bám víu vào họ một cách tuyệt đối và vĩnh
viễn như là những người thân thuộc hay bạn hữu của mình.
Tóm lại đối với mình, giữa kẻ thù và bạn hữu
không có một ranh giới tuyệt đối nào cả. Kẻ thù hay
bạn hữu cũng không khác gì nhau, lúc thì mang lại những điều tốt đẹp, lúc
thì gây ra mọi thứ đổ vỡ cho mình. Do đó không có một lý do nào để mà chấp
nhất hay thiên vị đối với bất cứ ai cả. Vậy các bạn nên tạo ra
cho mình một thể dạng bình lặng (equanimity/tĩnh lặng, thanh
thản, không phân biệt hay thiên vị) đối với tất cả chúng
sinh. Dầu sao thể dạng tâm thức đó cũng không thể hiện lên
với mình được sau một hay hai buổi hành thiền, mà cần đến một sự luyện tập kiên
trì kéo dài hàng tháng hay hàng năm.
Sau đây là bảy điểm thiền định dựa vào quy
luật nguyên nhân hậu quả:
1- Điểm thiền định thứ
nhất: trông thấy bóng dáng mẹ nơi tất cả chúng sinh
Giai đoạn đầu tiên trong phép thiền định về nguyên nhân hậu
quả dựa vào bảy điểm là phát huy một sự quán thấy tất cả chúng
sinh đều từng là mẹ của mình. Trong mỗi kiếp sống trong chu kỳ xoay vần
bất tận không khởi thủy của sự hiện hữu, chúng ta đều có một
người mẹ. Do đó chúng ta không thể nào khẳng định một cách chắc
chắn là một chúng sinh nào đó đang sống hiện nay chưa từng là một
người mẹ của mình trước kia trong quá khứ. Các bạn nên nhìn vào tất cả chúng
sinh qua góc nhìn đó. Thế nhưng các bạn cũng có thể nghĩ rằng chúng
sinh thì nhiều vô kể, vậy làm thế nào mà tất cả lại có thể từng là mẹ
mình được. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng nếu chúng sinh nhiều vô
kể thì các kiếp sống của mình trong chu kỳ hiện hữu cũng nhiều
như thế. Hoặc các bạn cũng có thể nghĩ rằng dù cho họ từng đúng thật là những
người mẹ của mình thì đấy cũng chỉ là các người mẹ trong quá khứ, không
phải là mẹ của mình trong kiếp sống này. Tuy nhiên các bạn cũng thử
nhìn lại xem, chẳng phải người mẹ của mình trong ngày hôm qua cũng vẫn còn là
mẹ của mình trong ngày hôm nay hay sao?
Nếu đủ sức hình dung được sự sống không khởi thủy thì các bạn
tất sẽ phải hiểu được trong quá khứ sự sống đó của mình dù là dưới hình
thức nào (trong sáu cõi luân hồi) cũng đều phải được
sinh ra từ một người mẹ - từ một quả trứng hay bên trong một tử cung. Do
đó không có một chúng sinh nào lại không có thể là mẹ mình (dù
đấy là những con thú). Chấp nhận sự thật này không phải là
chuyện dễ (dưới một góc nhìn khác thì dù chúng ta tin hay
không tin vào sự tái sinh cũng vậy, chủ đích của phép luyện
tập này là giúp mình nhìn vào tất chúng sinh đều là mẹ mình, và đó là
cách khơi động một thứ xúc cảm thật mạnh bên trong chúng ta là lòng
hiếu thảo, giúp chúng ta phát huy bồ-đề tâm thật rộng lớn
trong tâm thức mình). Vậy các bạn hãy thử suy nghĩ theo
một chiều hướng ngược lại xem sao, tức là tìm cách loại bỏ những
người không phải là mẹ mình trong quá khứ. Vậy thì đối với các chúng
sinh mà mình gạt sang một bên đó thì các bạn có thể quả quyết một
cách chắc chắn là họ chưa từng bao giờ là mẹ của mình hay
không?
(Thật
vậy, trông thấy hình bóng của mẹ trong tất cả chúng sinh kể cả những
con thú không phải là dễ thực hiện, một khi lòng từ bi bên trong
chính mình chưa chín mùi, tức có nghĩa là "cái tôi" của mình còn quá
to lớn và nặng nề, không cho phép mình "bay lượn" xuyên
qua không gian và thời gian cùng với tất cả các chúng
sinh khác trong sự xoay vần của thế giới hiện tượng. Bên trong thế
giới đó tất cả các chúng sinh khác đều hiện lên với
mình như trong một giấc mơ thật dài. Trong giấc mơ đó mình "gặp lại" cha
mẹmình, ông bà mình, những người mà mình từng thương yêu, kể cả các kẻ
thù của mình. Tất cả đều bay lượn trong thế giới ảo giác đó,
lúc thì hiện lên thật rõ ràng lúc thì mờ đi và biến mất,
hun hút trong không gian và thời gian, tương tự như ảo giác.
Thế nhưng cũng có một cái gì đó rất thật và cụ thể đó là sự hiện
hữu của chính mình. Sự hiện hữu đó chính là món nợ mà mình phải
trả cho một người mẹ, có thể là rất gần trong ngày hôm nay, nhưng cũng có thể
là rất xa, hun hút ở một nơi nào đó trong thế giới hiện tượng này.
Trong sự hiện hữu rất thật đó của mình cũng có một thứ xúc cảm cũng
rất thật và vô cùng cao quý, đó là lòng hiếu thảo đối mẹ
mình trong ngày hôm nay, hay trong ngày hôm qua thì cũng vậy. Vậy hãy biến lòng
hiếu thảo rất thật đó trở thành bồ-đề tâm cũng rất thật
trong tâm thức để hồi đáp món nợ ấy cho từng người mẹ của
chính mình).
Sau hết các bạn nên tự hỏi như thế này: vậy nếu cứ xem tất cả chúng sinh là
mẹ mình thì sẽ phải chịu thiệt thòi hay được lợi? Nếu muốn phát huy bồ-đề
tâm - tức lòng thương người - thì các bạn cũng nên ý thức một
điều là nếu không chấp nhận cách nhìn đó đối với kẻ khác (tức
xem họ là mẹ mình), thì dù có cố gắng cách mấy thì các bạn cũng
không thể thành công được. Khi nào chưa chấp nhận cách nhìn
đó thì những điều mong cầu của các bạn (bồ-đề tâm) vẫn còn hết
sức xa vời. Nên hiểu rằng trong chu kỳ xoay vần bất tận của sự hiện
hữu, các kiếp sống không có một điểm khởi thủy nào, do đó trong quá khứ tất
cả chúng sinh đều có thể từng là những người mẹ sinh ra mình và nuôi
nấng mình.
Nhìn vào kẻ lạ và xem họ từng là những người thân thuộc của mình
không có nghĩa là trong quá khứ họ nhất thiết cũng phải là
những người xa lạ với mình. Vị đại sưMaitreya (Di Lặc,
được xem là thầy của Asanga/Vô Trước, thế kỷ thứ IV) trong tập luận "Abhisamayalankara"/
"Hiện tráng trang nghiêm luận" cho biết rằng chúng
ta cũng có thể nhìn vào một người bạn quý nhất hay một người thân
thuộc gần gũi nhất với mình và xem họ cũng từng là những người thân
thiết với mình trước đây trong quá khứ. Chẳng hạn nếu mình cảm
thấy gắn bó với cha mình hơn là mẹ mình thì cứ hình dung cha
mình trong kiếp sống này cũng từng là cha mình trong quá khứ, hoặc cũng có
thể nhìn vào đứa con yêu quý hiện nay của mình và hình dung nó cũng
từng là con mình trong các kiếp sống trước, đó là cách giúp mình bộc lộ tình
thương yêu đối với những người khác. Điều quan trọng là phải làm thế nào
để phát huy một thể dạng tâm thức giúp mình bộc lộđược tình
thương yêu và sự quý mến thật sâu xa của mình đối với
tất cả chúng sinh. Đấy là cách giúp mình trông thấy được bóng dáng mẹ
mình nơi mỗi chúng sinh.
Dù có kinh sách nào bài bác quan điểm cho rằng tất cả chúng
sinh vào một lúc nào đó đều là những người mẹ hết lòng nuôi nấng
mình thì cũng không hề hấn gì. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng các trường
hợp ngoại lệ đó (tức có những người không phải là mẹ mình hoặc
không chăm sóc gì đến mình) không phải là một bằng chứng để phủ nhận sự
kiện trên đây. Ngay cả ngày nay cũng có những đứa con sau khi lớn lên
không còn đoái hoài gì đến mẹ của chúng nữa. Đối với trường hợp của
các bạn cũng vậy, dù được mẹ hết lòng thương yêu và chăm sóc
nhưng không phải vì thế mà các bạn bắt buộc tất cả các chúng sinh khác
cũng phải cư xử như thế đối với mình.
2- Điểm thiền định thứ
hai: biết ơn lòng tốt của tất cả chúng sinh
Giai đoạn thiền định tiếp theo là nhớ lại ơn nghĩa của
tất cả những ai đã từng chăm sóc mình. Nhằm giúp mình khơi động lòng biết
ơn đó đối với họ các bạn hãy hình dung ra một người thân
thiết nhất với mình, chẳng hạn như mẹ hay cha mình trong lúc tuổi già.
Hãy hình dung ra họ một cách thật chính xác, chẳng hạn như đang
trong hoàn cảnh phải cần đến sự chăm lo của những người chung quanh (hầu
giúp mình ý thứcđược bổn phận của mình). Đấy là cách giúp mình thiền
định (về lòng biết ơn) thật cụ thểvà thiết thực.
Sau đó các bạn hãy nghĩ đến mẹ mình chẳng hạn, không những đấy là mẹ mình trong
kiếp sống này mà cả trong các kiếp sống khác của mình trước đây.
Trong kiếp sống này, tình thương của mẹ đối với mình thật vô
biên, không những từ lúc mới lọt lòng mà cả truớc đó, khi mình còn
trong bụng. Trong những lúc đó mẹ mình cũng đã phải chịu đựng đủ mọi
thứ khổ nhọc; và gần đây hơn mẹ mình cũng vẫn còn phải hy sinh hạnh
phúc và cả các thú vui khác vì mình. Khi mình vừa lọt lòng thì mẹ cảm
thấy vô cùngsung sướng như vừa tìm thấy một kho tàng. Mẹ hết
lòng bảo vệ, chăm lo, tắm rửa, bồng bế, cho đến khi mình chập
chững biết đi.
Đối với các loài thú vật chẳng hạn như chim chóc, chó, mèo, thì cũng
vậy, các bạn cũng sẽ nhận thấy sự chăm sóc đó, tuy không được lâu bền
như con người, thế nhưng tình thương và sự hy sinh của
chúng cho con cái cũng hết sức vô biên. Dưới một góc nhìn khác thì
tình mẫu tử của các loài thú thật rõ ràng là bất vụ
lợi, khác hơn đối với con người, bởi vì con người thường nuôi hy
vọng sau này con cái sẽ đối xử hiếu thảovới mình (đôi khi chúng
ta cũng nên học điều đó nơi các loài thú vật để hiểu rằng mình
nên chắp cánh cho con cái bay cao. Nếu chúng ta từng tập chúng từng
bước khi chúng mới chập chững, thì khi lớn lên cũng nên để chúng tự
do bước đi trên con đường mà chúng đã chọn. Bám víu dù
dưới hình thức nào cũng đều không tốt cho mình cũng như cho chúng.
Phải tìm cách hóa giải nghiệp nhưng không nên ngăn chận sự vận
hành của nghiệp - dù là của chúng hay của mình - bởi vì đó chỉ là cách tạo
ra thêm nghiệp mới).
Chẳng hạn như các loài chim, một số phải tìm bắt sâu bọ để nuôi con, có khi
phải ra sức nuôi cả một đàn con trong tổ; chúng tự gánh vác một mình,
không như chúng tađược sự giúp đỡ của những người chung quanh. Cách chúng cố
gắng nuôi con không khỏi khiến chúng ta cảm động. Mỗi khi thấy
chim con gặp hiểm nguy, chẳng hạn như gặp mèo hay kên kên, thì chim mẹ có thể hy
sinh cả mạng sống của mình. Tuy thái độ đó của chúng dù chỉ là
một hình thức bám víu nhưng cũng phản ảnh cả một tình
thương bao la. Vậy nào có phải chỉ có sự hy sinh của người mẹ
nơi giống người thì mới là vô biên đâu. Sự hy sinh đó không
phải chỉ xảy ra trong một kiếp sống duy nhất mà qua không biết bao
nhiêu sự hiện hữu. Biết suy tư như thế sẽ tạo ra những tác động thật
mạnh trong tâm thức mình.
Sau khi đã hiểu được thế nào là tình thương yêu của mẹ nhất là trong
kiếp sống này, thì các bạn hãy hình dung ra những kẻ mà mình cảm
thấy xa lạ và ghê tởm, kể cả súc vật, hầu giúp mình suy tư. Các
bạn hãy suy nghĩ như thế này, các chúng sinh ấy hiện nay có
thể là nguy hại, cư xử với mình như kẻ thù, thế nhưng trong các
kiếp sống quá khứ các chúng sinh ấy cũng có thể từng là ân
nhân của mình, nhiều lần cứu mạngmình, vì thế lòng nhân từ của
họ thật vô biên. Đấy cũng là một cách suy nghĩ giúp mình luyện
tập tâm thức.
3- Điểm thiền định thứ ba: đền
ơn cho kẻ khác
Sau khi đã ý thức được lòng tốt của tất cả chúng sinh (và
cũng là những người mẹ của mình) thì phải tìm cách hồi đáp lại lòng
tốt ấy. Mỗi khi hồi tưởng lại sự hy sinhcủa mẹ thì tự
nhiên niềm ước mong đền đáp công ơn mẹ sẽ hiện
lên với mình, thế nhưng niềm ước mong đó phải bùng lên từ một
nơi sâu kín nhất tận đáy tim mình. Không đền đáp được công ơn đó của
mẹ là vô trách nhiệm và bất hiếu. Vì thế phải cố gắng với
tất cả khả năng mình hầu mang lại sự tốt lành cho tất cả mọi
người (vì tất cả từng là mẹ mình). Đấy là cách đền ơn cao
quý nhất (dù mẹ không còn sống để đền ơn thì hãy đền ơn cho
các kẻ khác, vì đó cũng là cách gián tiếp đền ơn cho những người
mẹ của chính mình).
4- Điểm thiền định thứ tư: tình
thương yêu và lòng tốt
Sau khi đã phát huy được sự bình lặng (equanimity/thanh thản, đồng
đều, không phân biệt) và lòng hiếu thảo đối với mẹ qua
hình bóng của tất cả chúng sinh, thì khi đó các bạn cũng sẽ phát động được tình
thương yêu và sự trìu mến của mình đối với tất cả chúng
sinh. Các xúc cảm đó càng sâu xa thì lòng ước mong loại
bỏ khổ đau cho chúng sinh và mang lại hạnh phúc cho họ
cũng sẽ càng mãnh liệt hơn. Hình bóng mẹ hiện lênqua bóng dáng của
tất cả chúng sinh sẽ làm nền tảng cho các giai đoạn luyện tập tiếp
theo. Sau khi đã thiết đặt được nền móng vững chắc đó thì các
bạn nên hồi tưởng lại công ơn của mẹ và cầu mong thật chân
thành sẽ đền đáp công ơn ấy của mẹ. Đấy là cách giúp mình đạt
được một thể dạng cảm nhận tất cả chúng sinh đều trở
thành những người thân thiết và gần gũi với mình (một
cách vắn tắt: 1- "chắp" hình bóng mẹ với bóng dáng của
tất cả chúng sinh, 2- hồi tưởng lại công ơn của mẹ, 3-
đền đáp công ơn đó hướng vào tất cả chúng sinh qua hình
bóng của mẹ mình).
Đến đây các bạn hãy chuyển sang suy tư về sự kiện tất cả chúng
sinh, dù lúc nào cũng mong cầu tìm thấy sự an lành và tránh
khỏi mọi khổ đau, thế nhưng trên thực tế thì phải gánh chịu trăm
ngàn nỗi đớn đau và khổ nhọc. Các bạn hãy suy nghĩ như thế này, các chúng
sinh ấy cũng chẳng khác gì mình, tất cả đều ước mong tìm được hạnh
phúc, thế nhưng những niềm hạnh phúc đó thật hết sức xa vời
đối với họ. Đấy là cách giúp mình phát động tình thương yêu và lòng
vị tha đối với họ.
5- Điểm thiền định thứ
năm: lòng từ bi bao la
Nhằm giúp mình thiền định về lòng từ bi thì các bạn nên hình
dung tất cả chúng sinh đều phải gánh chịu mọi thứ khổ đau. Nếu
muốn phát huy lòng từ bi đó to rộng hơn thì các bạn hãy bắt đầu hướng
vào một chúng sinh duy nhất thật cụ thể, đang lâm vào hoàn
cảnh đau thương không lối thoát, chẳng hạn như kinh sách thường nêu
lên trường hợp một con vật đang bị đưa vào lò sát sinh. Hãy hình
dung tâm trạng của nó trước hoàn cảnh thương tâm ấy hầu
khơi động lòng thiết tha mong cầu giải thoát cho nó trước
cảnhkhổ đau đang chờ đợi nó.
Hoặc các bạn cũng có thể hình dung ra các cảnh huống đáng
thương khác của các chúng sinh khác. Thí dụ thì quả không
thiếu, chẳng hạn như khi di chuyển bằng xe lửa ở Ấn Độ, chúng
ta tất sẽ có dịp trông thấy vô số cảnh tượng đáng thương,
đối với con người và cả súc vật. Hãy hình dung ra các chúng
sinh ấy, tất cả cũng như mình đều thiết tha mong cầu đạt được hạnh
phúc, thế nhưng thật hiển nhiên các chúng sinh ấy đang phải chịu
đựng toàn là những điều bất hạnh. Chẳng hạn như cảnh tượng con
ngườisử dụng thú vật để chuyên chở hàng hóa, khắp các làng mạc và đô
thị nơi nào cũng thấy các con bò già yếu đã trở thành vô dụng (không
còn sức chuyên chở hay kéo xe được nữa), xã hội thì cấm giết,
không một ai ngó ngàng đến chúng. Trên đất Ấn người ta cũng thấy những kẻ ăn
xin mù lòa, câm, điếc, tàn tật, rách rưới. Chẳng những không ai giúp đỡ họ
vì lòng từ bi, mà mọi người còn tìm cách tránh ra
xa, hoặc xô đuổi họ, đôi khi còn đánh đập họ nữa. Đấy là các cảnh tượng xảy
ra nhan nhản tại bất cứ nhà ga nào ở Ấn. Các bạn hãy hình dung ra
bất cứ một hoàn cảnh đáng thương nào mà mình nghĩ rằng không sao chịu
đựng nổi. Sự quán tưởng đó sẽ mang lại cho các bạn một sức
mạnh từ bi vô song và rộng lớn.
Sau đó các bạn tiếp tục hướng sự suy nghĩ của mình vào các
thể loại chúng sinhkhác: dù hiện nay các chúng sinh này chưa gặp
cảnh khổ đau, thế nhưng sự tích lũy nghiệp phát sinh từ các hành động tiêu
cực của họ sẽ không tránh khỏi mang lại cho họ những hậu
quả mà họ không hề mong muốn.
Lòng ước mong tất cả chúng sinh đạt được hạnh phúc mà
họ chưa bao giờ được hưởng gọi là tình thương yêu toàn cầu,
và lời thệ nguyện giải thoát tất cả chúng sinh khỏi
khổ đau thì gọi là lòng từ bi. Các bạn có thể luyện tập cả hai phép thiền
định này cùng một lúc, và cho đến khi nào tác động của
chúng có thể biến cải được tâm thức mình.
6- Điểm thiền định thứ
sáu: thái độ phi thường
Đối với việc luyện tập giúp phát động tình thương yêu và lòng từ bi
thì không được dừng lại ở cấp bậc tưởng tượng hay mong cầu, mà phải tạo ra một
sự quyết tâmchân thành mong sao có thể làm vơi bớt khổ đau cho chúng
sinh và mang lại hạnh phúccho họ. Và đấy cũng chính là trọng
trách mà người tu tập phải gánh vác. Càng phát huy thật
mạnh lòng từ bi thì các bạn sẽ càng cảm thấy vững mạnh và
tự tin hơn. Thật vậy, chúng sinh chỉ vì vô minh nên không
trông thấy được các phương pháp luyện tập mang lại cho mình những
điều tốt đẹp. Do đó những ai một khi đã ý thức được điều này thì
phải quyết tâm nhận lãnh trách nhiệm mang lại sự tốt
lành cho họ.
Lòng quyết tâm đó gọi là thái độ phi thường hay thượng
thặng. Dầu sao sức mạnh của lòng từ bi thúc dục mình phải
nhận lãnh trách nhiệm cũng không thể xảy đến với những người tu
tập còn kém cỏi. Theo các nghi thức truyền khẩu (các nghi
lễ thụ giáo của Kim Cương Thừa) thì thái độ phi
thường đó phản ảnh cả một sự dấn thân, tương tự như ký
vào một bản giao kèo (trong các nghi lễ thụ giáo, người tu
tập phải thệ nguyện trước chư Phật và các vị thầy mình là sẽ quyết
tâm đạt được giác ngộ để giúp đỡ chúng sinh một cách
hữu hiệu).
Mỗi khi khơi động thái độ phi thường đó trong tâm thức mình,
các bạn cũng nên tự hỏi ngoài sự can đảm và quyết tâm ra
thì thật sự mình có hội đủ khả năng mang lại hạnh phúc đích
thật cho các chúng sinh khác hay không? Chỉ khi nào đủ sức chỉ
cho chúng sinh trông thấy được con đường của sự hiểu
biết toàn năng, giúp họ xóa bỏ tấm màn vô minh che lấp tâm
thức mình, thì khi đó các bạn mới có thể đặt hạnh phúc lâu bền
vào tầm tay của họ được. Nếu không thì dù có cố gắng cách
mấy đi nữa các bạn cũng chỉ có thể mang lại cho họ một sự an vui tạm thời, bởi
vì mục đích tối hậu chỉ có thể thực hiện được bằng
cách loại bỏ tấm màn vô minh trong tâm thức họ,
và cũng chỉ có họ mới làm được việc ấy cho họ và bởi chính họ mà thôi. Ngay cả
đối với các bạn cũng vậy, nếu muốn đạt được sự giải thoát thì
phải tự mình gánh lấy trọng trách đó (đối với người đọc hay
người nghe, sau khi xếp sách hay nghe giảng xong thì không nên để cho mọi sự
đâu lại vào đấy. Đối với người viết hay người giảng cũng thế, sau khi gửi
bài hay giảng xong thì không nên ngồi chờ xem có ai khen mình hay không. Cung
cách hành xử đó không phải là một sự ý thức mà chỉ là một cách mang
lại cho mình một chút an vui hay giải khuây tạm thời mà thôi).
Như tôi vừa nói trên đây, chính các bạn phải chỉ cho mọi người trông
thấy con đường đúng đắn, thế nhưng việc đó sẽ không thể nào thực
hiện được khi các bạn vẫn chưa thực hiện được một sự hiểu
biết đúng đắn. Có nhiều phương tiện giúp mình đạt được sự hiểu
biết đó, chẳng hạn như sự hiểu biết trí thức cũng có thể là
một trong số các phương tiện ấy, thế nhưng sự hiểu biết sâu xa hơn
thì chỉ có thể đạt được qua các kinh nghiệm cảm nhận của
chính mình mà thôi (tức bằng sự tu tập của chính mình).
Trước khi đưa ra những lời giáo huấn thì chính mình cũng phải thấu
triệt thật minh bạch những lời giáo huấn ấy. Các bạn
phải tạo được cho mình một trí tuệ hoàn hảohầu đưa ra những lời giáo
huấn hợp thời và thích nghi, phù hợp với xu hướng và
khả năng của từng người. Không nên mang một số khái niệm quá sâu sắc để thuyết
giảngcho bất cứ ai, bởi vì các khái niệm này thay vì mang lại lợi ích thì
có thể trở nên độc hạicho họ.
Nếu muốn quán thấy được khả năng của kẻ khác thì trước hết chính mình phải tự loại
bỏ được tất cả các chướng ngại tinh tế ngăn chận sự hiểu
biết. Khi còn tại thếchính Đức Phật cũng đã từng đưa ra một quyết
định trong trường hợp trên đây: có một người chủ gia đình xin
được xuất gia, thế nhưng các đệ tử uyên bác của Ngài, trong
số này có cả Sariputra (Xá-Lợi-Phất) đều cho rằng người này chưa hội đủ tiềm
năng đạo đức để được thụ phong. Duy nhất chỉ có Đức
Phật nhờ sức mạnh của sự hiểu biết toàn năng đã
quán thấy được tiềm năng của người này (và đã thụ phong cho người chủ gia
đình này). Vì thế khi chưa đạt được sự giác ngộ hoàn
hảo, thì khi đó vẫn còn một thứ chướng ngại (nivarana/triền cái, ngũ
cái) nào đó bên trong tâm thức ngăn che sự hiểu biết,
khiến việc trợ giúp kẻ khác không được toàn vẹn.
Tuy
nhiên các bạn cũng có thể tự hỏi nếu việc thực hiện ước vọng mang
lại sự tốt lành cho kẻ khác tùy thuộc vào quyết tâm của
chính họ thì: "Tôi nào cần phải gắng sức để đạt được giác
ngộ làm gì? Dầu sao thì cũng có vô số chư Phật giúp họ, và đối
với họ thì cũng chỉ cần một bước đầu tiên là đủ".
Dầu sao nếu muốn có một vị hướng dẫn tâm linh hay một vị giáo
huấn giúp đỡ mình, thì giữa hai bên phải có một sự kết nối của nghiệp (giữa
thầy trò hay bạn hữu, giữa những người trong cùng một gia đình, chủng
tộc hay quốc gia đều có một mối dây liên kết của
nghiệp, sự khác biệt là mối dây đó lỏng lẻo hay thật chặt). Do đó một số vị
thầy cũng chỉ có thể đưa ra những lời giảng huấn mang lại hiệu quả cho
một số đệ tử nào đó của mình mà thôi. Nếu muốn thấu triệt được
điều này thật sâu sắc thì nên xem thêm kinh sách chẳng hạn như tập luận "Sự hoàn
hảo của Trí Tuệ" với phiên bản gồm tám ngàn câu (tức
là tập Prajnaparamita/Bát-nhã Ba-la Mật-đa, gộp chung một số các kinh chủ yếu
nhất của Đại Thừa. Phiên bản 8000 câu là phiên bản xưa nhất được xem là do
Nagarjuna/Long Thụ trước tác. Bởi vì sau đó trên dòng tiến hóa của Đại
Thừa từ thế kỷ thứ II đến thứ IV, phiên bản đầu tiên này được
khai triển thêm và trở thành nhiều phiên bản mới gồm:10.000, 18.000,
25.000 và 100.000 câu, và được gọi chung là Maha-prajnaparamita/Ma-ha Bát-nhã
Ba-la Mật-đa - maha có nghĩa là lớn. Vào các thế kỷ tiếp theo sau đó
thì ngược lại tập kinh này được tóm lược ngắn hơn, trong đó có một bản thật
ngắn gọi là Prajnaparamita Hrdaya/Tâm Kinh, thường được mang ra tụng niệm).
Trong tập kinh này có nêu lên trường hợp chư Phật và chư Bồ-tát mỗi
khi nhận thấy một người tu tập có một mối dây liên kết của
nghiệp mạnh hơn hướng vào các nơi khác (tông phái, chi phái hay
các người khác) thì thường khuyên người này hãy tự tìm một vị thầy
khác phù hợp với mình hơn. Do đó đối với một số người, dù đủ khả
năng trông thấy được một vị Phật bằng chính mắt mình, thế nhưng cũng có thể
không gặt hái được nhiều lợi ích so với trường hợp được
kết nối với chính bạn, nhờ vào các mối dây liên kết của nghiệp buộc
chặt hơn giữa họ và chính bạn. Vì nguyên nhân chu kỳ hiện
hữu không có điểm khởi đầu nên các mối dây liên kết của nghiệp
cũng vậy (tức cũng không có một điểm khởi thủy nào); do đó theo tôi
thì cũng có thể xảy ra các mối dây liên kết của nghiệp thật mạnh ngay
trong kiếp sống hiện tại (có nghĩa là giữa thầy và trò cũng có thể
có những mối dây liên kết của nghiệp không nhất thiết liên
hệ gì với quá khứ, mà là do cả hai tự tạo ra cho mình trong kiếp sống hiện
tại này).
Dù sự hiểu biết toàn năng mà các bạn đạt được không
thể mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh đi nữa, thì nhất
định nó cũng có thể mang lại nhiều lợi ích cho một số nào đó. Vì
thế thật hết sức quan trọng là các bạn phải đạt cho bằng được sự giác
ngộ toàn vẹn cho chính mình.
(Sự giác
ngộ của một vị Phật dù không đủ giúp đỡ tất cả chúng sinh thế
nhưng cũng phải đạt được thể dạng đó. Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng
thế, Ngài có thể giúp được rất nhiều người nhưng không thể giúp được tất cả mọi
người trên hành tinh này. Vị Phật lịch sử cũng vậy, Ngài cũng
giúp được rất nhiều người trong thung lũng sông Hằng cách nay 2500
năm và rất nhiều người trong số chúng ta hôm nay, thế nhưng cũng
không thể cứu vớt được tất cả nhân loại. Vào thời đại của Đức
Phật cũng có các vị thầy khác, các tín ngưỡng khác. Ngày nay
cũng vậy, có nhiều người hướng vào những lời giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma,
nhưng cũng có nhiều người khác tin vào những lời thuyết giáo của các vị
"thầy" khác hay những lời hô hào của các vị "lãnh đạo"
khác. Vô minh của con người thật đa dạng và mênh mông).
Một số chúng sinh rất cần đến sự giúp đỡ của các bạn trên đường tu
tập tâm linh, do đó thật hết sức chủ yếu là các bạn phải nhận
lãnh trách nhiệm mang lại mọi sự tốt lành cho họ. Sự ý
thức đó sẽ mang lại một niềm tin vững chắc là khi chưa đạt
được một sự hiểu biết toàn năng thì khi đó các bạn sẽ vẫn
chưa thực hiện được mục đích mà mình đặt ra cho mình
và cũng sẽ không thể mang lại được sự tốt lành đích thật cho kẻ
khác.
7- Điểm thiền định thứ
bảy: bồ-đề tâm
Từ một nơi sâu kín nhất của con tim mình và với tất cả tình thương yêu
và lòng từ bi, các bạn hãy khơi động niềm ước vọng đạt được thể
dạng giác ngộ toàn vẹn hầu mang lại sự tốt lành cho
tất cả chúng sinh. Nuôi dưỡng niềm ước vọng đó trog tâm
thứcmình tức là cách giúp mình thực hiện bồ-đề tâm.
Sau khi đã hiểu được phải làm thế nào để thực hiện bồ-đề tâm, thì các
bạn cũng nên mang ra để luyện tập và phát huy nó và cũng nên xem đấy là kết quả
mà con đườngđã mang lại cho mình. Hãy tưởng tượng vị thầy tâm linh đang
ngụ trên đỉnh đầu mình, hãy hình dung vị ấy thật vui lòng, ngợi
khen sự cố gắng của mình và nói rằng sẽ hết lòngchăm lo cho
mình. Hãy tưởng tượng vị ấy thật mãn nguyện, tan biến và đi vào đỉnh
đầu mình, di chuyển xuống phía dưới và hòa nhập vào tim mình. Đồng
thời chính mình cũng tan biến theo và hóa thành Tánh Không, và
từ bên trong Tánh Không đó mình sẽ hiện ratrở lại dưới thể
dạng của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hãy tưởng tượng mình hòa nhập với
Ngài, không có một sự tách biệt nào cả, và hãy cảm thấy thật hân
hoan trong thể dạng đó. Hãy hình dung tất cả các phẩm tính do
việc luyện tập bồ-đề tâm mang lại cho mình, hóa thành các tia
sáng tỏa ra từ tim mình, chan hòa và chiếu rọi tất cả chúng sinh,
mang lại những điều tốt lành cho họ, làm vơi bớt khổ đau của họ và
tạo điều kiện giúp họ tìm thấy sự giải thoát và được tái
sinh trong các hoàn cảnh thuận lợi hơn, và sau hết là đạt
được sự hiểu biết toàn năng (có nghĩa là trở thành những
vị Phật toàn vẹn).
Ngoài những lúc hành thiền ra thì các bạn cũng nên xem thêm kinh sách và các
bài thuyết giảng về phép luyện tập bồ-đề tâm trên đây.
Đến đây xin chấm dứt buổi thuyết giảng về quá trình phát
động bồ-đề tâm theo phương pháp nguyên nhân hậu quả dựa
vào bảy điểm ("nguyên nhân" là trông thấy bóng dáng mẹ
mình trong tất cả chúng sinh, "kết quả" là bồ đề tâm hiện
lên trong tâm thứcmình qua bóng dáng của mẹ, hầu giúp mình đạt
được sự giác ngộ toàn vẹn của một vị Phật).
Vài lời ghi chú của người dịch
Điểm nổi bật đáng lưu ý trước hết trong bài giảng trên đây
là Đức Đạt-lai Lạt-ma cho biết rằng dù là một vị Phật toàn năng cũng
không sao giúp đỡ được tất cả chúng sinh. Thế nhưng vì sự an vui của chúng
sinh, chúng ta phải đạt cho bằng được thể dạng ấy, và đấy cũng chính
là cốt lõi của Đại Thừa Phật giáo. Đối với Đức Đạt-lai Lạt-ma
cũng vậy, Ngài không thể giúp đỡ được tất cả nhân loại, khi mà nghiệp vẫn
còn chi phối quá nặng nề nơi mỗi con người. Ngày xưa Đức
Phật lịch sử cũng không sao giải thoát được tất cả chúng
sinh trong thung lũng sông Hằng.
Nghiệp là động cơ thúc đẩy sự vận hành của thế giới hiện
tượng. Dưới một góc nhìn khác thì đấy là quy luật nguyên nhân hậu
quả nằm trong một quy tắc chung là sự tương liên, tương kết và
tương tạo (interdependence/lý duyên khởi) chi phối toàn thể thế
giới hiện tượng. Trong cái thế giới vô cùng phức tạp đó, nếu
có thể giúp cho chúng sinhgiải tỏa phần nào nghiệp của họ thì cũng
nên làm. Nếu vì nghiệp hay một lý do nào khác mà mình không ý
thức được trọng trách đó thì hãy cứ nhìn vào tâm thức mình,
quê hương mình và thế giới này, xem có nơi nào không có khổ đau hay
không? Khi nào nhận thấy được điều đó thì chúng ta sẽ bớt tìm
cách thụ hưởng và ý thức dễ dàng hơn trọng trách của
mình.
Điểm đáng lưu ý sau đó trong bài thuyết giảng trên đây, khá tế
nhị và tinh tế, liên hệ đến nhiều yếu tố như xu
hướng và sự bén nhạy của mỗi người, có nghĩa là liên hệđến nghiệp của
mỗi cá thể, do đó người chuyển ngữ cũng chỉ mạn phép trích dẫn
dưới đây một vài câu trong bài thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma
trên đây với mục đích gợi ý và xin dành mọi sự suy luận cho
mỗi người trong chúng ta.
"Chỉ khi nào đủ sức chỉ
cho chúng sinh trông thấy được con đường của sự hiểu
biết toàn năng, giúp họ xóa bỏ tấm màn vô minh che lấp tâm
thức mình, thì khi đó các bạn mới có thể đặt hạnh phúc lâu bền
vào tầm tay của họ được".
......
"[...] các bạn phải chỉ cho mọi
người trông thấy con đường đúng đắn, thế nhưng việc đó sẽ không
thể nào thực hiện được khi các bạn chưa thực hiện được một
sự hiểu biếtđúng đắn. Có nhiều phương
tiện giúp mình đạt được sự hiểu biết đó, chẳng hạn như
sự hiểu biết trí thức cũng có thể là một trong số các phương
tiện ấy, thế nhưng sự hiểu biết sâu xa hơn thì chỉ có thể
đạt được qua các kinh nghiệm cảm nhận của chính mình mà
thôi".
......
"Trước khi đưa ra những lời giáo
huấn thì chính mình cũng phải thấu triệt những lời giáo
huấn đó. Các bạn phải tạo được cho mình một trí tuệ hoàn hảo hầu
đưa ra những lời giáo huấn hợp thời và thích nghi, phù hợp với xu
hướng và khả năng của từng người".
"[...] khi chưa đạt được sự giác
ngộ hoàn hảo, thì khi đó vẫn còn một thứ chướng ngạinào đó bên trong tâm
thức ngăn che sự hiểu biết, khiến việc trợ giúp kẻ khác không được
toàn vẹn".
Phía sau những câu giảng trên đây thiết nghĩ cũng không phải là khó
để hình dung ra một người đã đạt được một sự hiểu biết toàn
năng, một trí tuệ siêu nhiên và một khả năng đạo đức toàn
vẹn. Thật vậy Đức Đạt-lai Lạt-ma là một người vô cùng khiêm tốn, thành
thật và ngay thẳng, và luôn chỉ nhận mình là một nhà sư Phật
giáo. Thế nhưng qua trí tuệ siêu nhiên và tiềm năng đạo đức toàn
vẹn của mình, Ngài trông thấy và thực hiện nhiều điều mà Ngài
không thể nói ra được với tất cả chúng ta mà tâm thức còn
đang bị che lấp bởi một tấm màn vô minh dầy đặc. Vậy chúng
ta hãy đọc tiếp những câu sau đây để tự suy ngẫm theo sự hiểu biết và
bén nhạy của chính mình:
"Không nên mang một số khái
niệm quá sâu sắc để thuyết giảng cho bất cứ ai, bởi vì các khái niệm
này thay vì mang lại lợi ích thì có thể trở nên độc hại cho
họ"
"[...] chính mình cũng tan biến
theo và hóa thành Tánh Không, và từ bên trong Tánh Không đó
mình sẽ hiện ra trở lại dưới thể dạng của Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni"
Bài giảng trên đây được dựa vào sự quán tưởng là một trong các
kỹ thuật thiền định quan trọng nhất của của Phật giáo Tây Tạng.
Vậy chúng ta cũng nên thử tìm hiểulướt qua về các phương
pháp thiền định của tông phái Phật giáo này mà người Tây
Phương ngày nay ngày càng thán phục.
Dưới một góc nhìn nào đó thì Phật giáo quả đúng là một nền tư
tưởng thực dụngnhưng vô cùng siêu việt, được hình thành từ kết
quả suy tư, chiêm nghiệm và sự hiểu biết của một con
người có một trí tuệ siêu phàm. Hình ảnh vị hoàng tử
Siddharta Gautama chấp nhận mọi gian khổ, ngồi yên lặng,
trầm tư và suy nghiệm dưới một cội cây giúp mình "khám phá" ra một sự
thật nào đó, một phương pháp luyện tập nào đó hầu biến tâm
thức mình trở thành một sự hiểu biết siêu nhiên, đã
nói lên thật cụ thể sự hình thành của Phật giáo. Sự hiểu
biết siêu nhiên đó ngày nay chúng ta gọi là sự Giác
Ngộ(Bodhi), và sự khám phá đó là kết quả mang lại từ sức
mạnh suy tư và sự biến cải tâm thức mang lại một sự hiểu
biết siêu phàm cho vị hoàng tử ấy. Ngày nay chúng ta gọi sự
suy tư và biến cải đó là "Thiền định", tiếng Phạn và tiếng
Pa-li gọi là Bhavana, gốc từ chữ bhava nguyên
nghĩa là "phát huy", "trau dồi", "tạo ra", hay
"biến thành" (becoming) một cái gì đó, một thể dạng tâm
thức hay một hình thức hiện hữu nào đó, mà ngày nay chúng
ta gọi là sự Giải Thoát.
Ngôn
ngữ Tây Phương dịch chữ này không hoàn toàn đúng là
Meditation, bởi vì chữ này chỉ có nghĩa là "suy tư" hay "suy
ngẫm" về một thứ gì đó. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì triết học và
các tín ngưỡng độc thần của Tây Phương dựa vào đức tin và
sự cầu xin ơn trên, không có một ý niệm nào về sự
"biến cải" và "phát huy" tâm thức của chính mình tương
tự như trong Phật giáo.
Một sự lẫn lộn khác về thuật ngữ Bhavana trên đây cũng thật đáng quan
tâm, đó là cách dịch âm trong tiếng Hán về chữ Jhana (tiếng Pa-li) hay Dhyana
(tiếng Phạn) là "Channa" hay "Chan" (禅), các chữ này lại tiếp tục được dịch
âm sang tiếng Nhật là "Zenna" hay "Zen", và
tiếng Việt là "Thiền-na" hay "Thiền". Thế
nhưng tiếc thay các chữ Jhana hay Dhyana chỉ có nghĩa là một thể
dạng "lắng sâu" của tâm thức hay một thể dạng "chú tâm"
thật mạnh và sâu xa của tâm thức, trong khi đó thì chữ Bhavana là một
"kỹ thuật hay phương pháp luyện tập nhằm biến cải tâm thức".
Thật hết sức rõ ràng, chữ bhavana thường được ghép
chung với các chữ khác trong kinh sách để nêu lên các phép luyện tập của Phật
giáo, thí dụ:
- Citta-bhavana: sự tập luyện hay phát huy tâm thức
- Metta-bhavana: sự trau dồi hay phát huy lòng từ tâm hay từ
bi
- Panna-bhavana: sự trau dồi hay phát huy sự hiểu biết
- Samatha-bhavana: phát huy thể dạng bình lặng, tĩnh lặng của tâm
thức
- Vipassana-bhavana: phát huy sự quán thấy sâu xa của tâm
thức.
Do đó khổng thể đồng hóa hai chữ Bhavana và Jhana để
gọi chung là "Thiền định" (Jhana/Dhyana) được. Dầu sao thì chữ Thiền
định/Meditation đã trở thành thông dụng, khó thay đổi được, do đó chúng
ta cũng nên tiếp tục sử dụng từ này nhưng phải lưu ý là ý
nghĩa của nó là sự "tập luyện tâm thức giúp quen dần với
một cung cách suy nghĩ hay tạo ra một thể dạng cảm nhận nào
đó". Tiếng Tây Tạng dịch chữ Bhavana thật tài
tình là "sgom-pa", có nghĩa là "tập quen dần" với một
cái gì đó hay một thể dạng tâm thần nào đó. Trong trường
hợp bài giảng trên đây là "tập cho tâm thức quen dần với
cách nhìn vào chúng sinh và trông thấy bóng dáng của mẹ
mình qua hình bóng của họ".
Trong Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều phép luyện tập theo đường hướng
trên đây, tức là rất cụ thể, minh bạch và chính xác, nhằm mục
đích biến cải tâm thức mình, tập cho nó suy nghĩ theo
một chiều hướng nhất định nào đó, hoặc tạo ra cho nó một cung cách
cảm nhận đặc biệt nào đó. Xin đơn cử một vài phép luyện tập
thường thấy nói đến như sau:
- Sự tỉnh thức hay tỉnh giác (Mindfulness/Awareness),
tiếng Tây Tạng là Si-ne, đó là một cách luyện tập tâm
thức hầu tạo ra cho nó một thể dạng thăng bằng, tĩnh lặng, thanh
thản, không xao động (equanimity). Theo cách định nghĩa từ chương của Phật
giáo Tây Tạng thì đó là cách giúp người tu tập "an trú
trong sự bình thản của tâm thức". Thật ra đây cũng là giai đoạn
"chuẩn bị" chung cho tất cả các phép luyện tập thiền địnhcủa toàn
thể các học phái và tông phái Phật giáo. Bởi vì khi
nào chưa thực hiện được thể dạng tĩnh lặng và thăng bằng đó thì tâm
thức sẽ không thể nào suy nghĩ đúng đắn và sáng suốt về
bất cứ một điều gì cả. Tất cả các sự suy nghĩ của mình đều bị ô
nhiễm bởi các sự thúc đẩy của bản năng và các tác
động của nghiệp. Trong bải giảng trên đây thì phép luyện tập căn bản và sơ
đẳng này được giải thích ngay trong phần mở đầu: "Giai
đoạn chuẩn bị: phát huy thể dạng bình lặng".
- Nhận chịu và hiến dâng (Tonglen), có nghĩa là
nhận chịu khổ đau của kẻ khác và hồi đáp hay hiến dâng cho họ hạnh
phúc của chính mình. Sự nhận chịu và hiến dâng đó phải thành thực và
thiết tha, phải cảm nhận được sự đau đớn của kẻ khác một cách thật sự
từ trong tâm thức và con tim mình. Đối với sự hiến dâng cũng vậy,
phải hết lòngtrao lại cho kẻ khác tất cả công đức mà mình gom
góp được.
- Sự quán thấy hay quán tưởng (Visualization),
là một phép luyện tập hướng vào một vị thần linh hay một vị Phật mà
mình mong muốn trở thành chính vị ấy. Người hành thiền có thể quán
tưởng một thần linh đạo hạnh hầu mượn sự quán tưởng
đó để phát huy các phẩm tính của vị ấy bên trong chính mình, hoặc cũng có thể quán
tưởngmột vị thần linh hung tợn để giúp mình chống lại các
khiếm khuyết, dục vọng cũng như các xúc cảm tàn phá và bấn loạn bên
trong tâm thức mình. Thế nhưng trước khi quán tưởng và trở
thành các vị thần linh hay một vị Phật thì phải thực hiện được bản
chất vô ngã (không có "cái tôi") và Tánh Không của
mình, và nhờ đó vị thần linh hay vị Phật mà mình mong muốn được trở
thành mới có thể hiện ra từ Tánh Không đó.
- Bánh xe Man-ni và các câu Tụng niệm Man-tra, là
các phương tiện góp phần vào việc thiền định. Bánh xe (còn gọi
là cối xay) có thể rất lớn hay thật nhỏ có thể cầm trên tay, trên đó có khắc
các câu man-tra. Quay chiếc bánh xe là một cách tinh khiết hóa tâm thức
mình và làm phát ra trong không gian các câu man-tra ghi khắc trên
bánh xe, và cũng là một cách thay cho sự tụng niệm của mình. Tính
cách thực dụng trong phép luyện tập này của người Tây Tạng thật
đáng khâm phục, bởi vì chỉ cần quay một vòng cũng đủ tung vào không gian vô
tận hàng trăm hay hàng ngàn câu man-tra ghi khắc trên đó.
Man-tra là các câu tụng niệm thật ngắn mang tính cách thiêng
liêng, nhằm mang lại lợi ích cho sức khỏe trên thân xác và biến
cải tâm thức mình.
Những gì trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ý niệm thật
bao quát về thiền định là phương pháp tu tập chủ yếu
của toàn thể Phật giáo nói chung. Chúng ta thường
xuyên sống với một tâm thức lầm lẫn, hoang mang và cả những khổ
đau thật sâu kín, nhưng chúng ta không hề ý thức được điều
đó. Vì thế thiền định trong Phật giáo không phải là một phương
tiện "đi tìm" bất cứ một thứ gì cả, mà là một phương pháp tinh
tế, sâu sắc và hữu hiệu nhằm "cải thiện" tình trạng lầm lẫn,
hoang mang và khổ đau đó trong tâm thức của chính mình.
Tâm
thức thường xuyên bị xao lãng thế nhưng không mấy khi chúng
ta ý thứcđược điều đó. Chúng ta ăn nhưng không ý thức mình
đang ăn những thứ gì; chúng ta nói nhưng không ý thức được ý
nghĩa và các xúc cảm ẩn chứa trong những lời mình nói; chúng ta đi
nhưng không ý thức được là mình đang đi, chỉ khi nào đến nơi thì mình
mới biết là đã đến. Ở một khía cạnh khác sâu xa hơn thì mình cho rằng
mình rất tỉnh táo, thế nhưng thật ra thì vô số các thứ khổ đau
sâu kín chi phối mình thật kín đáo bên trong tâm thức, chúng tác
động đến từng tư duy, xúc cảm, tác ý, ngôn từ và hành
động của mình.
Mặt khác, chúng ta luôn sống trong một tình trạng quán
tưởng nhưng không hề hay biết là mình đang quán tưởng. Sáng sớm thức
dậy, trông thấy trời âm u và mây đen, chúng ta "nghĩ"
rằng hôm này trời sẽ mưa. Chuẩn bị đi ăn sáng ở quán phở gần nhà, chúng ta "nghĩ"
đến góc bàn mà mình thường ngồi, chọn bát phở với các miếng thịt mà mình ưa
thích. Ngồi ăn phở chúng ta "nghĩ" đến các công việc mà
mình sẽ phải làm ở sở, trong khi làm việc thì "nghĩ" đến người này
hay người kia, hay là những gì mình sẽ làm vào tối hôm nay, v.v., đó là những
sự "quán tưởng". Mặt khác, quảng cáo, quần áo, hàng hóa trưng
bày hào nhoáng ở các cửa hiệu hay trong siêu thị là các cách gợi lên sự
quán tưởng của mình, chẳng hạn quần áo đúng mốt sẽ làm cho mình xinh
đẹp hơn. Những lời tuyên truyền hay hô hào, các bài diễn văn, các
khẩu hiệu, biểu ngữ là các phương tiện mà người làm chính
trị khai thác và lợi dụng sự quán tưởng của mình.
Thiền
định trên phương diện tổng quát là một phương tiện trước
hết là để phát huy một sự chú tâm thật tỉnh táo và sắc bén,
hầu "đánh thức" sự suy nghĩ của mình, sau đó là nhờ vào sự tỉnh
táo hay thức tỉnh đó mình mới có thể quan sát, phân tích, tìm
hiểunhững gì hiện lên bên trong tâm thức mình và thế
giới bên ngoài. Sự hiểu biết mang lại từ sự quan sát tỉnh
táo đó gọi là sự giác ngộ.
Sự hiểu biết tỉnh táo tức là phép luyện tập thiền định mang
lại sự hiểu biết đúng đắn trên đây gồm có hai khía
cạnh hay lãnh vực. Trước hết là mang lại cho cho mình một thể dạng tâm
thức bình lặng, thăng bằng và tỉnh thức (mindfulness/awareness).
Đó là cách loại bỏ mọi sự xao lãng giúp mình trở về với
chính mình, tìm thấy sự trong sángvà tĩnh lặng bên trong tâm
thức mình. Khía cạnh hay lãnh vực luyện tập thứ hai là nhờ vào
thể dạng trong sáng và bình lặng đó của tâm thức, chúng ta sẽ
quán thấy được thật sâu xa bản chất của chính mình và thế
giới, đó là bản chất "vô thường", "khổ đau" và
"vô thực thể" của mọi hiện tượng cấu hợp tạo ra chính mình
và toàn thể vũ trụ, hầu buông bỏchúng. Buông bỏ chúng
có nghĩa là tháo gỡ "cái tôi" và các thứ khổ đau của mình,
và cả sự trói buộc của mình trong chu kỳ xoay vần bất tận của những
sự hiện hữu. Phép luyện tập trong lãnh vực thứ hai này thường
được gọi là "Thiền định phân tích" hay "phân giải"
(Analytical meditation). Thế nhưng Phật giáo Tây Tạng thì hết
sức thực tế, không những chỉ "phân tích" và "buông bỏ"
mà còn lợi dụng tất cả các sức mạnh của xúc cảm, tiêu
cực cũng như tích cực, nhằm mục đích đạt được thể dạng giác
ngộ nhanh chóng hơn. Trong bài giảng trên đây thì sức mạnh đó là
do các xúc cảm của sự quán tưởng tích cựcmang lại.
Thay vì quán tưởng đến trời mưa hay trời nắng, quán tưởng đến
bát phở, đến hàng hoá trong siêu thị hay những lời hô hào và khẩu hiệu, thì chúng
ta nên quán tưởngbóng dáng của mẹ mình nơi tất cả chúng
sinh. Sự quán tưởng đó sẽ làm hiện lên bồ-đề tâm trong tâm
thức mình, và đấy cũng chính là bản chất của một đấng giác
ngộ.
Bures-Sur-Yvette, 06.01.17
Hoang Phong chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét