Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

5 CÁI “ĐỪNG” CỦA CUỘC ĐỜI, HÃY GHI NHỚ ĐỂ SỐNG KHÔNG CÒN VƯỚNG BẬN



Con người muốn được sống hạnh phúc, thanh thản mà trong tâm lại vẫn cứ ôm giữ các loại tâm tranh đấu, oán hận thì vĩnh viễn không thể nào đạt được. Hãy ghi nhớ 5 thứ “đừng” sau đây để cuộc sống không phải vướng bận điều gì nữa!

Cái đừng thứ nhất: Có tiền đừng keo kiệt
Tiền khi sinh chẳng mang theo đến, khi tử chẳng mang theo đi. Sức khỏe mới là thứ quan trọng hơn nhiều, có sức khỏe thì mới có tất cả.
Trong dân gian có câu nói: “Không sợ kiếm ít tiền, chỉ sợ chết sớm”. Có sức khỏe thì ngại gì không kiếm được tiền. Vì sức khỏe, khi nào cần chi tiêu thì hãy chi tiêu, có tiền đừng keo kiệt.
Cái đừng thứ hai: Có phúc đừng chờ đợihttp://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg
Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa. Nên tranh thủ thời gian hưởng thụ cuộc sống, đừng vì con cháu mà làm việc quá sức, làm cố quá là sát thủ nguy hiểm nhất của sức khỏe.
Cái đừng thứ a: Có tình yêu đừng buông bỏ
Cuộc đời thật ngắn ngủi, tình yêu lại không dễ tìm kiếm, cho dù yêu hay được yêu đều là duyên phận, đều nên đón nhận, ngày hôm nay bạn buông bỏ, thì kiếp này nó sẽ không bao giờ đến với bạn nữa.
Cái đừng thứ tư: Tức giận đừng để trong lòng
Trong cuộc đời, ai cũng có thể phải gặp những chuyện khó khăn hay không vừa ý, đừng nên vì thế mà “nộ khí xung thiên”. Tức giận là tồn tại khách quan, không nên giữ ở trong lòng, nín thở thì khí sẽ ứ tắc, khí ứ tắc thì sẽ sinh bệnh.
Gặp phải những sự việc khiến ta tức giận, hãy tìm người để khai thông nó, thổ lộ ra hết, như vậy sẽ gỡ bỏ nó nhanh hơn, nội tâm sẽ yên bình trở lại.
Bạn bè chính là công cụ “thông tức khí” tốt nhất, cũng là nguồn động lực, khích lệ tinh thần, tiếp thêm sức mạnh tốt nhất cho bạn.
Cái đừng thứ năm: Có thù hận đừng ghi nhớ
Lòng dạ khoáng đạt, dùng thiện lương nhân ái để đối đãi, không để ý những chuyện nhỏ, gạt bỏ ân oán, cũng không để thù hận trong lòng. Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống.http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg
Người xưa sống được trường thọ vì họ có “tam bất thức”, chính là không cần biết 3 điều, không quan tâm ân oán, không quan tâm tuổi tác, không quan tâm bệnh tật.
Hãy rèn luyện những điều này để sống thật vui vẻ nhé!
Lê Hiếu, dịch từ Cmoney.tw


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016

10 CÂU CHÂM NGÔN GIÚP CON NGƯỜI TỈNH NGỘ


Lâm Tắc Từ  
                                                                  (Ảnh: Internet)

Lâm Tắc Từ (1785 -1850) là người Hầu Quan, Phúc Kiến. Ông là nhà chính trị và cũng là một người có tín ngưỡng Phật giáo, sống vào thời kỳ cuối triều đại nhà Thanh. 

Lâm Tắc Từ chủ trương nghiêm cấm nha phiến cùng với việc chống lại sự xâm lăng của các nước phương Tây. Nhưng đối với văn hóa, khoa học kỹ thuật và mậu dịch của phương Tây thì ông lại có “thái độ mở”, chủ trương tiếp thu những ưu điểm và tác dụng của nó.

Lâm Tắc Từ có đúc kết “10 vô ích” được người đời coi là những câu châm ngôn kinh điển nhất của ông. Không chỉ người Trung Quốc mà người dân ở các nước phương Đông đều giữ gìn và học tập 10 câu nói này bởi họ cho rằng nó giúp con người tỉnh ngộ. 10 câu này như sau:

1. Tồn tâm bất thiện, phong thủy vô ích.
Tạm dịch nghĩa: Tâm còn chưa thiện, phong thuỷ vô ích

2. Phụ mẫu bất hiếu, phụng thần vô ích.
Tạm dịch nghĩa: Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích
3. Huynh đệ bất hòa, giao hữu vô ích
Tạm dịch nghĩa: Anh em bất hòa, giao hữu vô ích

4. Hành chỉ bất đoan, độc thư vô ích
Tạm dịch nghĩa: Hành vi không chính , đọc sách vô ích

5. Tố sự quai trương, thông minh vô ích
Tạm dịch nghĩa: Làm trái lòng người, thông minh vô ích

6. Tâm cao khí ngạo, bác học không ích
Tạm dịch nghĩa: Tâm cao khí ngạo, học rộng vô ích

7. Vi phú bất nhân, tích tụ vô ích
Tạm dịch nghĩa: Giàu có bất nhân, tích lũy vô ích

8. Kiếp thủ nhân tài, bố thi vô ích
Tạm  dịch nghĩa: Trộm cắp của người, bố thí vô ích

9. Bất tích nguyên khí, phục dược vô ích.
Tạm dịch nghĩa: Không giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích

10. Dâm dật kiêu xa, sĩ đồ vô ích
Tạm dịch nghĩa: Dâm tà loạn phép, mong có con đường làm quan là vô ích.

                                                                      Sưu tầm


Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016

CHÚC CHÁU (LVMT)

                                                   

                                                               CHÚC CHÁU (Lê Vũ Minh Triết)

                                                              Duy Anh lớp bảy đã qua nhanh,
                                                              Kết quả thầy khen chuyện học hành.
                                                              Lễ phép chăm ngoan luôn vượt khó,
                                                              Cả nhà mong đợi cháu thành danh.

                                                                                               Minh Đạo

CHÚC CHÁU (LVNB)



                                                               CHÚC CHÁU (Lê Vũ Nguyên Bảo)

                                                             Kết quả năm qua thật khả quan,
                                                             Thể thao học tập chẳng từ nan.
                                                             Tương lai xán lạn đang chờ đón,                                                                                                         Vạn sự huy hoàng thật cháu ngoan.

                                                                                                      Minh Đạo

Thứ Tư, 25 tháng 5, 2016

NGHIỆP



                                                                                                                                                                                                                                                                        NGHIỆP 

                                                                      Nghiệp lực đeo nhau suốt cõi đời,
                                                                      Đau thương khổ ải biết nào lơi.
                                                                      Gieo nhân muôn thuở đang rình rập,
                                                                      Gặt quả ngàn năm chẳng thoát vơi.
                                                                      Biển ái hai hàng sầu não dạt,
                                                                      Sông mê sáu nẻo lạnh lùng bơi.
                                                                      Nương theo ánh đạo tìm nguồn sáng,
                                                                      Tuệ giác vươn cao vượt bể khơi.
                                                  
                                                                                                           Minh Đạo

                                                                                                                 

MỘT SỐ HIỂU LẦM VỀ NGHIỆP CHƯỚNG



Không ít người hiểu chưa đúng về nghiệp chướng, nghĩ rằng nghiệp là một món nợ tiền kiếp mà mình phải trả, nghiệp là cái tội mà mình phải đền, xem nghiệp như định mệnh.

Không ít người hiểu chưa đúng về nghiệp chướng, nghĩ rằng nghiệp là một món nợ tiền kiếp mà mình phải trả, nghiệp là cái tội mà mình phải đền, xem nghiệp như định mệnh. Do đó nhiều người sống không hạnh phúc vẫn cam chịu những nỗi bất hạnh, chấp nhận những khó khăn (vì cho đó là do nghiệp quá khứ) mà không có ý muốn khắc phục, vượt lên.

Trong khi đó có những nỗi khổ niềm đau là nghiệp quả do con người tạo ra trong hiện tại hoặc quá khứ đời này, và con người có thể chuyển nghiệp để làm thay đổi bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ngay cả những nghiệp nhân đã tạo trong đời trước, khi chưa trổ quả, con người vẫn có thể tác động làm thay đổi được.

Nghiệp quả là những gì con người phải nhận lấy từ những nghiệp nhân mà mình đã tạo trong quá khứ gần và xa của đời trước hoặc đời này. Tuy nhiên có một điều quan trọng là khi nghiệp quả chưa hình thành, con người vẫn có thể chuyển nghiệp, tức làm cho nghiệp quả thay đổi (đến chậm hoặc giảm hiệu năng, mức độ tác động, ảnh hưởng) bằng cách tạo ra các nghiệp mới (nhân, duyên mới) có tính chất trái ngược.

Nghiệp nhân là tạo tác của những suy nghĩ, lời nói, hành vi của con người. Con người là chủ nhân của nghiệp, tạo ra nghiệp, cho nên nghiệp như thế nào là do con người quyết định, tự mình tạo cho mình mầm phước hay họa, hạnh phúc hay khổ đau.

Hoạt động của thân, khẩu, ý là tạo tác thường xuyên của con người. Chúng ta thường xuyên tạo nghiệp tốt hoặc xấu, lành hoặc dữ, thiện hoặc ác. Tạo nghiệp như thế nào sẽ đưa đến kết quả tương ứng mà mình phải nhận lãnh. Vì thế nghiệp không phải là tất cả những gì đã tạo trong quá khứ đời trước (nghiệp nhân đời trước), mà còn là những gì đã tạo trong quá khứ đời này và những gì đang tạo trong hiện tại (nghiệp nhân đời này). Có nhiều điều con người đang nhận lãnh trong hiện tại (vui, buồn, hạnh phúc, khổ đau) là kết quả của những nghiệp nhân vừa mới tạo.

Sự báo ứng trong luật nhân quả có hai hình thức. 1. Nhân quả đồng thời: Nhân sinh ra quả liền ngay hoặc chỉ sau một thời gian ngắn. Ví dụ đưa tay vào lửa liền bị nóng, ăn liền no, v.v… 2. Nhân quả khác thời: Từ nhân đi đến quả mất một khoảng thời gian. Có ba loại. Hiện báo: Tạo nghiệp nhân trong đời này phải nhận lãnh nghiệp quả ngay trong đời này. Ví dụ cờ bạc, rượu chè (nghiệp nhân) dẫn đến gia cảnh nghèo khó, nợ nần, bị người khác khinh khi. Sinh báo: Tạo nghiệp nhân trong đời này nhưng đến đời kế sau mới nhận lãnh nghiệp quả. Ví dụ đời này tu nhân tích đức nhưng đến đời sau tái sinh làm người có phước báo giàu sang. Hậu báo: Tạo nghiệp nhân trong đời này, đến nhiều đời sau mới nhận lãnh nghiệp quả. Vì có sinh báo, hậu báo mà có hiện tượng dường như nghịch lý, có người đời này tu nhân tích đức, hành thiện mà lại chịu nhiều nghèo túng, bất hạnh và khổ đau; có người đời này lười biếng thậm chí ác gian mà vẫn bình an, giàu có và hạnh phúc.
Hiểu rõ về nghiệp hay nguồn gốc, nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau và an vui hạnh phúc của con người; hiểu rõ con người chính là chủ nhân của nghiệp chứ không ai khác, con người có quyền tự do tạo nghiệp và có khả năng chuyển nghiệp (thay đổi nghiệp), chúng ta sẽ thấy rằng chuyển nghiệp là điều kiện bắt buộc khi muốn cải thiện đời sống, muốn làm thay đổi cuộc đời mình để có hạnh phúc trong hiện tại, đồng thời xây đắp nền móng tốt cho tương lai.

Chuyển nghiệp là làm thay đổi nghiệp nhân và nghiệp quả bằng cách thay đổi tâm ý.

Nghiệp là hoạt động của tâm ý thông qua ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm ý trong sạch, chơn chánh, thiện lành thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều tốt đẹp, lợi mình và lợi người. Tâm ý xấu, tiêu cực, bất thiện thì suy nghĩ, lời nói, hành động đều xấu ác, gây hại cho mình và người.
Khi tâm ý có sự thay đổi tích cực sẽ dẫn đến sự chuyển hóa ba nghiệp theo hướng tích cực. Đó chính là tạo các nghiệp nhân tốt trong hiện tại, những nghiệp nhân này có khả năng tác động, làm thay đổi, giảm thiểu năng lực hình thành nghiệp quả xấu của những nghiệp nhân bất thiện đã tạo trong quá khứ, và chúng cũng đưa đến những nghiệp quả tốt, tích cực trong tương lai.

                                                                         Theo Giác Ngộ


Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

GIÁC NGỘ TRONG KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC

                                                                                                                                                                                                                                                                Kết quả hình ảnh cho lá bồ đề


Kinh Tám Điều Giác Ngộ có hai mục đích: một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự trói buộc của sanh tử; hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của giáo pháp mà Đức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.
I. NỘI DUNG CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy; Phần ba là phần khuyến khích tu tập theo tám điều giác ngộ ấy, phần này coi như là phần kết thúc của kinh.
1. Lời mở đầu của kinh Bát Đại Nhân Giác rất ngắn gọn và đơn giản, có tính cách giới thiệu chủ đề, không như phần mở đầu của các kinh khác thường có. Điều nầy chứng tỏ Ngài An Thế Cao đã trích lục, soạn thảo tám điều giác ngộ, Ngài chủ động giới thiệu để người đọc có thể đi thẳng vào nội dung.
Mặc dù ngắn gọn nhưng tha thiết, vừa nói lên trách nhiệm và bổn phận của người phật tử vừa chỉ dẫn những điều cụ thể phải thực hành. Trách nhiệm của người Phật tử là gì? Ở đây không nói là người xuất gia, vậy từ Phật tử chỉ chung cho tại gia và xuất gia. Mang danh con của Phật thì phải thể hiện tính của Phật, đấy là chỗ khác biệt giữa người Phật tử và không là Phật tử; đấy là trách nhiệm của người Phật tử, những biểu hiện ở hành vi và ngôn ngữ cũng như tâm ý của người Phật tử luôn có sự cao thượng, lợi ích và hạnh phúc cho những người xung quanh.
Để xứng đáng với danh nghĩa là con của Phật, người Phật tử phải có quá trình tu tập bản thân; không phải tụng kinh, niệm Phật theo thời khóa nhất định mà sự tu tập ấy phải diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Vì vậy, lời mở đầu gọi là Trú Dạ, là ngày cũng như đêm. Như vậy mới đủ năng lực chuyển hóa tính phàm phu của mình.
Tụng niệm không có nghĩa là đứng trước bàn Phật tụng kinh gõ mõ là đủ. Tụng là đọc tụng, còn niệm là an trú tâm vào đối tượng, còn gọi là chánh niệm, là hướng tâm, an trú tâm vào đối tượng, ở đây chính là Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân. Do tụng và niệm thường xuyên làm huân tập chủng tử thiện pháp, trí tuệ ngày càng lớn, thân tâm càng thanh tịnh, càng ngày càng gần với tính Phật như vậy xứng đáng là con của Phật.
Bậc Đại Nhân là người lớn, là người trưởng thành, chỉ cho những người không còn bị sai khiến hay bị chế ngự bởi các phiền não, dục vọng.Theo truyền thống Đại thừa thì chỉ cho Phật và Bồ Tát, theo truyền thống Nguyên thủy, đó là những vị chứng quả A-la-hán hay trên đường chứng quả A-la-hán.
1. Điều giác ngộ thứ nhất là quán chiếu để thấy rõ pháp ấn: Vô thường, khổ, không, vô ngã ở nơi thân tâm của con người với mục đích bỏ những vướng mắc tham đắm, chấp thủ đối với con người và cuộc đời. Duy trì sự quán chiếu ấy trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình; mình sẽ có thái độ ứng xử thích hợp với chân lý. Đây không phải là lối nhìn bôi đen đời sống, là lối nhìn tiêu cực, mà chính là cách nhìn của tuệ nhãn đầy tích cực, nó có tác dụng mang lại sinh lực cho chúng ta. Con người đau khổ mất mát sinh lực chính là do nhìn đời ngược lại. Thành tựu các "niệm xứ" như kinh đã dạy, tức là bước vào Thánh đạo, không có con đường nào khác. Nhãn quan của đạo Phật về cuộc đời quá rõ như kinh Kim cương dạy:
"Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán."
2. Nội dung của điều giác ngộ thứ hai là "ham cầu nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều; đó là quy luật, đó là con đường phàm phu ngu muội. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn ….
Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục, ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt ngọn lửa càng yếu thì nước sôi sẽ bớt nhiệt độ và hết sôi. Cũng vậy, ngọn lửa tham dục bớt đi thì đau khổ sẽ giảm, giảm mãi hằng ngày đến lúc không còn gì để giảm nữa (vô vi) thì sự giải thoát tối hậu được thành tựu.
3. Trong điều giác ngộ thứ ba, có hai con đường mà ta phải chọn lựa: Một là lao đầu vào đời sống thế tục tìm kiếm lạc thú và đương nhiên hưởng thụ cả đau khổ, con đường đó được làm bằng dục vọng và tội lỗi. Hai là con đường xuất thế siêu thoát lên trên mọi cám dỗ dục lạc, thành tựu những an lạc siêu thế, chấm dứt khổ đau, con đường nầy được làm bằng tri túc và trí tuệ, đấy là con đường của đệ tử xuất gia, của người tu sĩ Phật giáo, đây là con đường của người cư sĩ thực hành Bồ tát hạnh.
4. Điều giác ngộ thứ tư dạy rằng sự tu tập cũng như chèo thuyền ngược nước không chèo là bị dừng lại và thối chuyển, tinh tấn là một đức tính cần thiết cho sự chèo con thuyền Bát Nhã vượt biển sanh tử. Đã là một đức tính thì cũng cần phải tu tập: Tinh tấn tu tập hạnh tinh tấn, không có cái gì tự có hoặc ngẫu nhiên. Tất cả đều tuân thủ các quy luật nhân quả, nghiệp báo, duyên sinh. Nhân như thế nào, duyên như thế nào, thì quả báo như thế ấy.
Hạt nhân hay chủng tử vô minh chấp ngã phiền não đã được tích lũy nhiều đời, có sức mạnh rất lớn, không dễ đoạn trừ. Các loại phiền não, bốn ma, năm ấm, giới đều nằm trong đó. Chánh kiến nhận thức được bản chất, chỗ trú ẩn của chúng rồi mới dùng trí tuệtinh tấn đoạn trừ chúng. Những khả năng ấy cũng đều nằm trong tâm thức. Tinh tấn là khai thác triệt để khả năng ấy.
5. Điểm mấu chốt của điều giác ngộ thứ năm là vô minh là cội nguồn của sanh tử, của đau khổ. Chấm dứt vô minh là mục tiêu của đạo Phật và của người đệ tử Phật. Con đường để đoạn trừ được vô minh là con đường phát triển trí tuệ, tức là làm cho " minh" xuất hiện thì " vô minh diệt". Trí tuệ có được là qua quá trình học tập biết nhiều qua văn huệ, tư huệ, tu huệ. Nhờ học rộng biết nhiều mà thành tựu được khả năng trí tuệiện tài tức là hiểu biết và lý luận sắc bén.Nhờ vậy mà giáo hóa được nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhiều quốc độ khác nhau. Phật pháp được gieo rắc rộng rãi, sự hạnh phúc mọi loài chúng sanh được phổ cập.
Trí tuệ trong bài giác ngộ thứ năm nầy là trí tuệ đi vào lĩnh vực chuyên môn, nghĩa là phát huy tác dụng độ sanh, tác dụng giáo dục để thành đạt mục đích phổ cập hóa Phật pháp vào đời sống con người và xã hội.
6. Điều giác ngộ thứ sáu bao gồm các nội dung sau đây:
- Bố thí là một công hạnh có tác dụng lợi ích rất đặc biệt, biểu hiện đủ hai mặt: Phước đức và trí tuệ.
- Phước đức có được là do đem đến cho chúng sanh bị đau khổ niềm an ủi, sự an tâm, sự đầy đủ, giảm cho họ những áp lực của đời sống mà có thể đưa họ vào con đường tội phạm tối tăm. Làm cho người khác được an vui hạnh phúc là ý nghĩa của phước đức.
-Trí tuệà do thực hành bố thí mà quán chiếu thực trạng đau khổ của đời sống, nhận được chân lý khổ đế. Mặt khác, mình thấy được tự tính vô ngã trong mọi thứ mà mình nắm trong tay: Không có người cho kẻ nhận và của cho. Thực hành tâm bình đẳnG, xả bỏ chấp thủ nhân, ngã, bỉ, thử, chủ thể, đối tượn... đạt được tâm thư thái thanh thản, giải thoát là ý nghĩa của trí tuệ.
Một người là đệ tử của Phật luôn được trang bị giáo dục để có được hai đức tính căn bản này là phước đức và trí tuệ. Qua hành động bố thí, ta có thể thành đạt hai đức tính ấy.
7. Nội dung của điều giác ngộ thứ bảy là người cư sĩ sống đời sống thế tục có kinh nghiệm phong phú, có sự hiểu biết sâu sắc về con người: căn cơ, trình độ, tâm lý, ước muốn của họ; hiểu biết một cách trực tiếp về bản chất của đời sống xã hội. Vì vậy họ có thể hiểu biết cảm thông và thương yêu con người một cách chân thật. Tuy vậy, để đạt được một đời sống lý tưởng "tâm xuất gia mà thân không xuất gia", đạt được mục đích và hạnh nguyện của một Bồ Tát cư sĩ thì họ phải thực hành tuần tự từng bước:
Quán chiếu để thấy rõ bản chất của năm dục lạc đưa đến tội ác và tai ương hoạn nạn, mà hoạn nạn lớn nhất là bị che khuất trí tuệ và chìm đắm trong vòng sanh tử. Phải tu tập để chiến thắng sự kiềm tỏa của năm dục, phải triệt tiêu áp lực của chúng trong nội tâm mình.
Phải tạo thói quen, xu hướng mới cho tâm thức, hướng tư duy về sự giải thoát, về đời sống viễn ly thành tựu được chánh tư duy, thiện tâm bắt đầu tỏa sáng.
Kiến tạo một đời sống đạm bạc thanh cao. Trong đó bao gồm các đối tượng bên cạnh mình như vợ con…để thiết lập cuộc sống chung giàu trí tuệ và an lạc.
Từ đó, thiết lập đời sống phạm hạnh coi nhẹ tình yêu ân ái vợ chồng giới tính biến thành tình yêu vị tha đối với muôn loài, biến các chất liệu của tình thương đau khổ, hạn chế thành chất liệu tình thương vô lượng,an lạc.
Như vậy, người cư sĩ có thể kiến tạo đạo tràng giữa cõi nhân gian, hoàn thành hạnh nguyện độ tha của Bồ Tát đạo.
8. Điều giác ngộ thứ tám là đỉnh cao của lộ trình tu tập Bồ Tát hạnh. Ở đó thể hiện trí tuệ và từ bi viên mãn, đồng thời thể hiện tác dụng hóa độ chúng sanh một cách cao độ. Tất cả những khả năng ấy đều được nói đến trong Kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa. Ở đây biểu hiện rất rõ hướng đi của mẫu người lý tưởng: Bồ Tát nhập thế. Đây là con đường mà người Bồ Tát cư sĩ có rất nhiều điều kiện và cơ hội thực hành.
- Khổ và thoát khổ là mối tư duy chân chính xuyên suốt mọi pháp môn tu tập. Làm cho mình hết khổ, giúp cho người bớt khổ là một công trình đòi hỏi trí tuệ, sức lực và thời gian. Còn hòa vào đời chịu cảnh tối tăm lem luốc để dẫn dắt chúng sanh lên bờ giải thoát là một hạnh nguyện vĩ đại của những Đại Sĩ, cũng gọi là hạnh nguyện hay sự giác ngộ của Bậc Đại Nhân mà Kinh này đề cập đến.
Phần kết thúc Kinh là những lời nói lên tác dụng siêu việt của tám điều giác ngộ của Bậc Đại Nhân nhằm khích lệ tinh thần tu tập của các hành giả Phật tử. Phần nầy có thể chia thành hai ý chính, đó là tác dụng xuất thế và nhập thế của tám điều giác ngộ.
II. TÁC DỤNG XUẤT THẾ CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
Tác dụng xuất thế gồm những gì? Đó là tu tập quán chiếu Tứ Niệm Xứ, trang bị cho mình nhận thức rõ về thân, về thọ, về tâm và về pháp. Tu tập hạnh thiểu dục tri túc sống đời thanh bạch từ bỏ các lạc thú ở đời. Nhờ vậy trí tuệ được tăng trưởng - tuệ giải thoát phát sinh.
- Con đường tu tập để làm thanh tịnh Thân - Khẩu - Ý, đoạn trừ các ác nghiệp và các ô nhiễm tâm lý, làm chủ được các hành vi bản năng, mở rộng đường cho trí tuệ và giải thoát; đó là con đường tu tập chung của mọi người Phật tử. Dĩ nhiên người xuất gia có lợi thế hơn. Đây là công hạnh căn bản, là hiện tướng giải thoát của người tu, nếu không có hay không đạt được hoặc không qua lộ trình tâm thanh tịnh nầy thì không có lộ trình giải thoát nào, nghĩa là muốn qua sông thì phải biết bơi, còn sử dụng khả năng biết bơi để cứu người hay không là chuyện khác. Vì vậy không thể chấp nhận một người Phật tử, nhất là Phật tử xuất gia mà tham lam, sân hận quá lớn, không có lý do chính đáng nào biện minh cho các việc làm hay hành vi bất thiện.
- Con đường Bồ-tát hạnh hay Đại thừa cũng dựa trên cơ sở giải thoát và thanh tịnh nầy mà hướng tâm về cứu độ chúng sanh.
- Thuyền pháp thân được làm bằng trí tuệ và từ bi, trí tuệ và từ bi được làm bằng chất liệu thanh tịnh không ô nhiễm. Con thuyền ấy đưa hành giả đến bờ giải thoát.
III. TÁC DỤNG NHẬP THẾ CỦA TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ
- Tu tập hạnh thanh tịnh giải thoát xuất thế đối với đường lối của Kinh tám điều giác ngộ có hai mục đích: Một là trang bị cho mình khả năng giải thoát khỏi sự trói buộc của sanh tử. Hai là sử dụng khả năng ấy để giúp cho chúng sanh cũng được lợi ích giải thoát như mình. Thực ra, bản chất của giáo pháp mà Đức Phật dạy luôn bao hàm hai khả năng ấy.
- Trong lời kết thúc nói rằng: sau khi các Ngài đắc đạo nhờ tu tập tám điều giác ngộ, các Ngài từ cõi Niết Bàn trở về cõi sinh tử giúp chúng sanh giải thoát. Điều nầy rất rõ ràng, trước khi hóa độ chúng sanh thì phải hóa độ mình trước, mình có giác ngộ, có giải thoát mới "trở về" hóa độ chúng sanh, chứ không phải mình chưa giải thoát mà vội độ sanh chỉ tăng trưởng phiền não và tội lỗi. Vì vậy, ta không có lý do gì để phê bình những người đang nỗ lực tu tập "độ mình" là những người tiêu cực, ích kỷ.
Tuy nhiên, nếu mình "độ mình" lâu quá, chúng sanh đang đau khổ mà mình chưa "công viên quả mãn" thì có phải đang bỏ rơi chúng sanh hay không? Có lẽ đó là một điều lo xuất phát từ thiện ý nhưng cũng như lo "voi chết không có hòm", kiểu nói của tục ngữ Việt Nam.
Con đường tu tập của Phật giáo không nên phân cách quá cứng ngắc giữa độ mình và độ người. Nếu quán chiếu theo chân lý duyên sanh, ta sẽ thấy: Độ mình là độ người, độ người cũng là độ mình. Chất liệu tu tập có chất liệu từ bi thì hệ quả tất nhiên là có độ chúng sanh. Vì vậy, không thể nói Đại thừa mới hoá độ chúng sanh được, còn các đường tu tập khác thì không !
Tác dụng nhập thế của tám điều giác ngộ là thành tựu biện tài thuyết pháp cảm hóa chúng sanh, giúp đỡ cho chúng sanh về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ bớt khổ, tạo cho họ cơ hội để họ tu tập hướng thượng, hướng thiện. Lấy nếp sống mẫu mực thanh bạch và vô dục của mình làm tấm gương, làm thân giáo để mọi người quay về chánh đạo. Cuối cùng nếu cần thiết, mình có thể nhập cuộc nhận lãnh khổ đau nếu đó là điều giúp cho mọi người bớt khổ thêm vui. Đó là con đường nhập thế của Bồ tát, của Kinh Tám Điều Giác Ngộ.
Tất cả mọi phương tiện mà Bồ-tát thực hành đối với chúng sanh đều phải hướng đến các tác dụng cụ thể:
a."Linh chúng sanh giác sanh tử khouot;: Làm cho chúng sanh có được trí tuệhận chân khổ đế mà cái khổ lớn nhất là cái khổ của sự sanh tử luân hồi. Điều nầy không dễ, người ta dễ dàng nhận thức hay chấp nhận chân lý khổ như: khổ về sanh, lão, bệnh, tử, thương yêu mà phải xa nhau, ghét mà phải gần nhau, hoặc cầu mong mà không toại ý, tức là những cái khổ mang tính hiện tượng, còn cái khổ bản chất thì họ không biết và rất khó biết. Vì vậy, họ chỉ mong hết khổ thông thường chứ không mong được giải thoát.
b. "Xả ly ngũ dục": Làm cho chúng sanh nhận chân được Tập đế là nguyên nhân của khổ, tham ái ngũ dục. Chúng sanh đang ở trong cuộc đời, đang hưởng thụ ngũ dục, đang hướng tâm trí đến các đối tượng của dục và vì vậy mà họ đang đau khổ. Làm cho chúng sanh thấy rõ bản chất của dục là nguy hiểm luôn gây ra hậu quả đau khổ, để họ dần dần nhận thức và từ bỏ chúng.
c. Tu hành thánh đạo: Làm cho chúng sanh hiểu được Đạo đế, tu hành con đường dẫn đến đoạn trừ khổ đau.
- Tu hành thánh đạo là gì? - Chính là tu tập hành trì Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nếu chúng sanh tu tập thánh đạo nầy thì chắc chắn thoát ly khổ ách.
- Đoạﮠcuối cùng nhắc nhở khích lệ người đệ tử Phật phải đọc tụng và nhớ nghĩ đến tám điều giác ngộ nầy. Được như vậy thì trong từng ý nghĩ tiếp diễn chỉ có thiện pháp, không có ác niệm, ác pháp. Nhờ đó mà ác nghiệp được tiêu diệt, dẫn đến giác ngộ, thành tựu thánh quả và khổ sanh tử chấm dứt, hưởng niềm vui tối thượng, an lạc Niết Bàn.
- Lời kết thúc kinh bao hàm ý nghĩa khái quát con đường tu tập của kinh, đó là thực hành sự thanh tịnh làm cho tâm hết ô nhiễm thành tựu các đức tính trí tuệ và từ bi, nhờ đó mà được giải thoát tối thượng. Sau khi đạt được sự giải thoát thực hành hạnh lợi tha dùng khả năng giải thoát giác ngộ của mình giúp cho mọi người có điều kiện hướng về chân lý và giải thoát như mình.
- Đồ thời lời kết thúc cũng đưa ra mục tiêu cụ thể cho hành giả thực hành công cuộc hóa độ làm cho chúng sanh nhận chân về sự khổ, về nguyên nhân đưa đến khổ và con đường đưa đến diệt khổ.
- Cuối cùng là khích lệ tu tập bằng cách nêu bật lên công dụng quán chiếu chánh niệm đưa đến đoạn trừ ác nghiệp thành tựu Niết Bàn.
Con đường mà kinh Bát Đại Nhân Giác giới thiệu là con đường thuận tiện cho đời sống của người cư sĩ thực hành để đáp ứng nguyện vọng của Bồ-tát dấn thân vào đời cứu độ chúng sanh. Con đường ấy đặc biệt ở chỗ sống giữa cuộc đời bụi bặm mà không dính bụi, ngược lại có thể chuyển hóa bụi bặm ô nhiễm thành thanh tịnh thanh lương./.
IV. SÁU BƯỚC ĐI CỦA LỘ TRÌNH TU LÝ TƯỞNG
... Để thiết lập một lộ trình tu có tính phổ biến hơn, tích cực hơn, để nhằm đáp ứng nhu cầu tu tập và hoằng pháp trong một bối cảnh xã hội mới như xã hội Trung Hoa vào thời Hán, Phật giáo chưa được chấp nhận một cách đầy đủ, các vị tăng sĩ chưa được xuất gia, thành phần cư sĩ là chủ yếu. Vì vậy mà Kinh Bát Đại Nhân Giác ra đời. Đây như là sự kiện tất yếu, nghĩa là phải có một mô thức mới phù hợp với hoàn cảnh mới cho người cư sĩ tại gia thực hành, đặc biệt dành cho những người cư sĩ có đạo tâm lớn - tâm thì muốn xuất gia, thân thì ở thế tục. Con đường tu tập này không lấy Định làm cơ sở mà lấy chánh niệm làm cơ sở, từ đó ý chí và nguyện lực được thiết lập.
Sự ra đời của kinh Bát Đại Nhân Giác một mặt lấy nền tảng tu tập của Kinh Bát Niệm, mặt khác dựa vào giáo nghĩa Đạthừa mà lúc bấy giờ công cuộc vận động Đại thừa đang lên cao. Chắc chắn Ngài An Thế Cao đã thừa hưởng sắc thái của truyền thống Đại thừa một cách trọn vẹn nên những điều giác ngộ cuối đã chuyển hướng sang sắc thái Đại thừa một cách triệt để. Kinh Bát Đại Nhân Giác rõ ràng là một hướng đi mới cho một điều kiện và xã hội mới. Đường lối ấy mệnh danh là Bồ-tát đạo và mục tiêu hướng đến là người cư sĩ tại gia. Ngài An Thế Cao đã gởi gấm lòng mình qua mẫu người thực hành Bồ-tát hạnh, giới thiệu một mẫu người lý tưởng để kiến tạo một xã hội lý tưởng, xã hội Phật hóa … Con đường tu tập này, chúng tôi cho rằng có thể chia làm sáu bước:
- Bước một: Xây dựng một con người có đầy đủ nhận thức sáng suốt về bản chất của cuộc sống, có một tầm nhìn chính xác và rộng rãi về cuộc đời, về vũ trụ thiên nhiên, về đời sống xã hội, về đời sống cá nhân gồm cả hai mặt thân thể vật lý và hoạt động tâm lý (Điều giác ngộ thứ nhất) có được một tầm nhìn như vậy gọi là có chánh kiến.
Giáo dục trang bị tri thức hoàn chỉnh và căn bản là bước đi đúng hướng, cần thiết như Đức Phật dạy trong kinh Bốn Mươi Pháp: "Chánh kiến đi hàng đầu trong lộ trình tu tập." Một người Phật tử chân chính là người có cái nhìn sáng suốt và hiểu sâu về bản chất của hiện tượng giới.
- Bước thứ hai: Xây dựng đạo đức bản thân qua lối sống thiểu dục và tri túc. Đi vào thực tiễn của đời sống và dưới sự soi chiếu của nhận thức chánh kiến, người Phật tử khép mình vào kỷ luật đạo đức qua tu tập hạnh thiểu dục và tri túc. Cần chú ý là trong kinh Bát Niệm nói dứt khoát là vô dục chứ không nói là thiểu dục. Vô dục của kinh Bát Niệm là đường lối Thánh đạo vô nhiễm, vô trước của người xuất gia. Thiểu dục tức là ít ham muốn, nghĩa là còn các dục nhưng hạn chế chúng tới mức tối thiểu. Nhờ đời sống kiềm chế nhu cầu tiêu thụ và hưởng thụ, đạo đức của người cư sĩ trở nên tăng trưởng và vững chãi. Nếu cứ để cho lòng ham muốn phát triển không có giới hạn chắc chắn sẽ phát sinh cướp đoạt, lừa đảo, gian trá và hãm hại….
- Bước thứ ba: Qua quá trình tu tập ít ham muốn và biết đủ, người Phật tử sẽ tạo được cho tâm thức mình một xu hướng mới: Xu hướng vượt thoát bản năng, tâm thức trở nên hướng thượng thanh cao. Từ con người mang nặng dấu ấn thế tục bắt đầu hình thành con đường giải thoát, đó là một cuộc cách mạng tâm lý, đòi hỏi có sự nỗ lực lớđể tạo một chuyển hóa đột phá trong tâm cũng như ngoại giới (Điều giác ngộ thứ tư).
Khi mà đời sống dục lạc, ham muốn vật chất giảm, xu hướng trí tuệ tăng, người Ph`ật tử có một hướng đi rõ: Những gì đưa đến tăng trưởng trí tuệ đều được quan tâm, coi trí tuệ là sự nghiệp của mình, do đó nhận thức càng sâu sắc và toàn diện (điều giác ngộ thứ năm).
- Bước thứ tư: Tri thức và trí tuệ đã vươn tới tầm cao, điều đó có thể tạo ra một hướng đi phi thực tiễn, trở nên cô độc, duy lý. Vì vậy để có sự quân bình, người Phật tử hướng tâm và tuệ của mình vào đời sống thực tiễn để hiểu và cảm thông với nỗi đau của quần chúng, những thái độ bạo động, hằn học, căm thù xuất phát từ sự nghèo túng khốn đốn về đời sống vật chất. Người Phật tử sử dụng năng lực trí tuệ để phát triển tình thương yêu cứu giúp mọi người, tu tập hạnh bố thí để quân bình trái tim và khối óc, đồng thời để tích lũy công đức trợ duyên cho đời sống tu tập và chí nguyện độ sanh dễ thành tựu (điều giác ngộ thứ sáu).
- Bước thứ năm: Điều hòa Bi-Trí song hành tạo được sự thăng bằng về tâm. Nhưng vì đời sống cư sĩ tại gia có những ràng buộc, những hệ lụy về tình ái nên dễ bị thối tâm và khó phát khởi tâm từ bi đến chỗ không giới hạn. Vì vậy đến trình độ này, người Phật tử bắt đầu thực hành phạm hạnh coi nhẹ tình ái hay chấm dứt tình ái vị kỷ để khai mở cánh cửa đại bi tâm. Từ đây ảnh hưởng của người Phật tử đã có tác dụng rộng, trước hết là đời sống gia đình được thuần hóa, sau đó là môi trường xã hội xung quanh đã có những ảnh hưởng đạo đức của mình.
- Bước thứ sáu: Bước cuối cùng, trí tuệhấu suốt bản chất nỗi khổ của chúng sanh. Vì vậy đại bi tâm mở rộng, tâm hồn của người Phật tử thể nhập vào thế giới chúng sanh, cảm thông và chia sẻ niềm đau của quần chúng. Người Phật tử không sợ đau khổ, dũng cảm dấn thân vào đời, thấy mình ở trong chúng sanh, chúng sanh ở trong mình, chúng sanh và mình là một. Vì vậy niềm đau của con người cũng chính là niềm đau của mình, nên không thể thờ ơ trước nỗi đau khổ của nhân loại. Họ dấn thân vào đời với trí tuệ vô ngã siêu việt, với trái tim thương yêu không giới hạn dưới mọi hình thức, dùng mọi phương tiện để đạt được mục đích đưa con người đến chỗ giải thoát an vui.
Sáu bước đi của một người cư sĩ thực hành Bồ-tát hạnh như vậy không phải là những bước đi siêu thực, mà đó là những bước đi hiện thực, là những điều kiện cho một con người toàn diện hay con người lý tưởng cho một xã hội lý tưởng: Một xã hội bình đẳng, an lạc, văn minh và giải thoát.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                             Thích Viên Giác


Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016

VỀ ĐÂU



                                                                         VỀ ĐÂU

Giữa muôn trùng biển khơi,
Trên chiếc thuyền bé nhỏ
Trôi dạt đến nhiều nơi,
Về đâu ta chẳng rõ.

Bên góc trời gian khó,
Chất chứa bao não phiền,
Chẳng tìm ra lối ngõ.
Cứ mãi sống cuồng điên.

Không chịu nghĩa tất nhiên,
Giữ tâm được lặng yên,
Soi đời qua quán tưởng,
Vượt bể khổ triền miên.

Chìm nổi trong vô minh,
Thì mãi chỉ thấy mình.
Lu mờ và khuất lấp.
Bồng bềnh chuyện tử sinh.

Cố giữ tâm an tĩnh,
Không giao động lung lay,
Nguyện cúi đầu cung thỉnh,
Pháp bảo gặp đời này.

Chú rùa gặp bộng cây,
Cố giữ khỏi chia tay
Dù muôn trùng sóng gió,
Kiếp sau còn gặp may!!!.

Nối nhau mãi trả vay
Lênh đênh suốt tháng ngày,
Nương pháp về chốn cũ
Tâm an giữa cõi này.

                              Minh Đạo



Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2016

HỌC CÁCH BỎ BỚT ĐỂ TẬP TRUNG HƠN

               
                     
                                       


Ở một vùng quê nọ, có 2 cha con một nhà trồng hoa đang sinh sống trong một khu vườn rộng lớn. Người cha chăm chỉ, yêu lao động và được cả xã hội công nhận về thành công trong lĩnh vực trồng hoa. Còn người con có rất nhiều tài. Anh lớn lên trong vòng tay yêu thương và đầy đủ vật chất mà người cha ban cho. Anh đã học được nhiều nghề, làm được nhiều điều hay. Nhưng ở tuổi 35, anh vẫn là một người vô danh trong xã hội.

Anh luôn suy nghĩ về điều này, vẫn không thể hiểu tại sao mình làm nhiều điều hay mà đến giờ vẫn là người vô danh.

Học cách bỏ bớt để tập trung hơn
Người cha hiểu ý, liền đưa anh đến vườn hoa mà ông chuẩn bị thu hoạch. Ông chỉ vào cây bông hồng to nhất, đẹp nhất và rực rỡ nhất nằm giữa vườn cho cậu con trai và hỏi:
– Con có biết tại sao cây bông hồng kia lại to và đẹp rực rỡ hơn các cây khác không?
– Có phải vì cha mua giống mới không?
– Không phải, người cha đáp, tất cả đều chung một giống hoa con ạ.
– Thế có phải cha tưới cho nó nhiều nước và bón cho nó nhiều chất dinh dưỡng hơn không?
– Cũng không phải. Điều kiện chăm sóc và môi trường sinh trưởng của chúng đều như nhau.
– Vậy thì chắc là đất ở chỗ đó tốt hơn?
– Con lại sai nữa rồi. Đất cũng giống nhau.
Người con không biết trả lời sao nữa. Anh nghĩ mãi nhưng vẫn không thể giải thích nổi.
Lúc này, người cha mới ôn tồn bảo:
– Con có nhận thấy cây bông hồng này ít lá và ít nụ không?
– À đúng rồi. Nhưng có nghĩa là gì hả cha?
– Trong khu vườn này, chỉ duy nhất có cây bông này là ta thường xuyên nhìn tới. Khi thấy nhiều lá mọc quanh nó, ta tỉa bớt. Khi thấy nó có nhiều chồi, nhiều nụ đâm ra, ta cũng tỉa bớt.
Người con có vẻ hiểu ra điều gì đó, gật đầu liên tục. Người cha tiếp lời:
– Tất cả các cây hồng đều có điều kiện sống như nhau, nhưng cây này lại được đặc ân của ta là tỉa bớt cành, nụ và lá nên chất dinh dưỡng sẽ tập trung vào bông hoa, không bị phân tán đi nơi khác. Chính vì thế nó to hơn, đẹp hơn và rực rỡ hơn.
Trầm ngâm một lúc, ông lại tiếp:
Cũng như con, tuy con rất giỏi, rất nhiều tài, làm được rất nhiều việc nhưng vẫn giống như những người khác vì con thiếu tập trung, bị phân tán năng lượng và thời gian vào quá nhiều thứ. Con cần phải xác định mình sẽ trở thành người như thế nào trong 5 năm tới. Con đam mê gì nhất, điều gì khiến cho con trăn trở nhất, điều gì khiến con có thể sống chết với nó, không quản khó khăn? Lúc đó con sẽ là người thành công, con trai ạ.
Lúc này, người con đã hiểu ra vấn đề. Anh khóc rồi quỳ xuống hôn vào tay người cha và cảm ơn ông về câu chuyện đã giúp anh nhìn nhận cuộc đời tốt hơn.
Vậy đấy các bạn ạ. Ai cũng có nhiều mối quan tâm, nhiều sự lựa chọn trong cuộc sống và sự nghiệp. Nhưng nếu không biết cách bỏ bớt để tập trung cho điều mình mong muốn thì mãi mãi vẫn sẽ là người vô danh.

                                                                         Nguồn: trích internet


Thứ Ba, 17 tháng 5, 2016

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN



                                                                              PHẬT ĐẢN 

                                                           Đón mừng Phật đản ngát trầm hương,
                                                           Thị hiện Như Lai giữa cõi thường.
                                                           Phước báu muôn đời soi khắp lối,
                                                           Cơ duyên vạn thuở rọi bao đường.
                                                           Gặp thầy tìm đạo xa màu mực,
                                                           Nương pháp theo bè tiến ánh dương.
                                                           Bát nhã đem đèn xin khấn nguyện,
                                                           Sông mê vượt thoát mọi tai ương.

                                                           Tai ương hoạn nạn chẳng làm ngơ,
                                                           Đắm đuối bao năm ngấn lệ mờ.
                                                           Ngộ lý chuyển tâm vươn tới đạo,
                                                           Tìm chân qui hướng tiến lên bờ.
                                                           Chúng sanh đau khổ Thầy khai hóa,(*)
                                                           Bồ tát từ bi con ngóng chờ.
                                                           Vạn ách trầm luân mong tế độ,
                                                           Đi về thường lạc khỏi bơ vơ.
                                                            (*)Deva manuṣyānāṃ śāstṛ : Thiên Nhân Sư, là Bậc thầy của cõi người và cõi trời.

                                                                                                    Minh Đạo