LỜI GIỚI THIỆU
Trong hành trình trở về cội nguồn tâm linh, chúng ta như đang dạo chơi giữa cõi trần, đối diện với muôn ngàn sắc thái có không, để quán chiếu cảm nhận ra sự tinh tế, vi
diệu là điều khó khăn cho kẻ phàm phu tục tử. Những vướng mắc, cản trở do vì
bản chất chấp ngã chấp pháp mà che lấp bổn tánh. Trong TUYỂN TẬP THƠ nầy cũng
như 8 tập thơ trước đây mà Cư Sĩ Minh Đạo đã phát hành đều nương theo
tinh thần, giáo lý Phật pháp để quán chiếu, diễn bày.
Thơ của Cư Sĩ Minh Đạo đã tả rõ chơn thật của sự vật, vấn đề, đều dựa theo tinh thần, giáo lý Phật giáo, động tĩnh tùy duyên. Vạn vật luôn biến đổi không ngừng bởi do duyên sinh và duyên diệt, thơ của Minh Đạo luôn uyển chuyển để hài hòa, không vướng mắc khi đối cảnh. Tùy duyên, nương duyên để lập hạnh, lập nguyện thẳng bước trên con đường tiến tu.
Sinh ra được làm người đó là may mắn lớn như “Con rùa mù gặp bộng cây”. Kẻ phàm phu ngu si trôi dạt trong ngũ thú tạm được thân người còn khó hơn. Nhận ra được giá trị nầy, hành giả phải luôn tinh tấn, nỗ lực. Thơ Minh Đạo đều luôn thể hiện tính tích cực, lạc quan trong tiến trình hướng về cội nguồn của bản tâm.
Trong Kinh Tăng Chi, Đức Phật đã dạy rằng: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy". Do vậy, Nghiệp là động lực, là đường dẫn đưa chúng sinh vào vòng sanh tử luân hồi, chính vì thế hành giả phải phát nguyện tận trừ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới, một khi nghiệp hết, ngay đó hành giả đạt đến chỗ vô sanh bất tử, giác ngộ và giải thoát. Chấp nhận, an nhiên với thực tại và sám hối nghiệp chướng là pháp hành mà Cư Sĩ Minh Đạo thường đề cập trong thơ của ông đã khuyến tấn bản thân mình và bè bạn gần xa.
Về đạo hiếu là một mảng khác trong khung trời thi ca của Cư Sĩ Minh Đạo, ông chào đời tại Quảng Trị, vùng đất miền Trung “ Mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm”. Cha Mẹ vất vả, dầm sương giải nắng trên ruộng đồng khô cằn mà không đủ sống, chắt chiu, gắng gượng nuôi con, đó là thời kỳ khó khăn mà bản thân ông đã trải qua. Chính dấu ấn nầy mà hình thành nhân cách sống chuẩn mực. Lấy đạo hiếu, ơn sinh thành dưỡng dục làm đầu. Khi lớn lên trưởng thành thấm nhuần giáo pháp Phật giáo và luôn chiêm nghiệm sự cao quí, trân trọng về ân dưỡng dục sinh thành. Đề tài này đề cập nhiều trong tập thơ và thường xuyên trích dẫn lời Phật dạy về hiếu thuận trong kinh Tâm Địa Quán, hoặc kinh Tăng Chi.
Trở thành cộng tác viên của thư mục thi ca của Trang Nhà Quảng Đức từ mùa Vu Lan năm 2017, Cư Sĩ Minh Đạo là một trong thi sĩ có thơ đăng tải thường xuyên và nhanh chóng gởi bài khi có lời mời xướng họa của diễn đàn.
Khái quát vài khía cạnh trong TUYỂN TẬP THƠ, thơ của Minh Đạo phần lớn xử dụng thể thất ngôn bát cú (Đường luật), súc tích, luôn chứa nhiều ẩn ý càng làm cho người đọc có cảm nhận sâu lắng hơn. Vài dòng xin giới thiệu đến quí độc giả.
Viết tại Melbourne, đầu mùa Xuân của Úc Châu (9/2022)
Thượng Tọa Thích
Nguyên Tạng
Trụ Trì Tu Viện Quảng
Đức, Australia
CẢM NHẬN VỀ TUYỂN
TẬP THƠ TÁC GIẢ MINH ĐẠO
tuyển tập thơ của
tác giả Minh Đạo đọc nhiều lần càng nghiệm ra cách nhìn sự vật, vấn đề bằng thiền
quán, không hoa mỹ nhưng sâu lắng. Càng suy ngẫm người ta đi vào thế giới thực,
thế giới hiện hữu tự nhiên không có tranh chấp, đố kỵ mà tương đồng diệu vợi.
Ngoại cảnh thì luôn động, nương duyên mà tiếp diễn,
nhưng với người dựa trên căn bản giáo lý Đức Phật thì sự hiện hữu ấy không bị
cuốn theo để làm lu mờ tính biết , ăn
thì biết ăn, ngủ thì biết ngủ, làm việc thì biết làm việc, khi đối chất với ngoại
cảnh bằng sự tỉnh thức:
Mộng dỗ tình ngây hoà chẳng đắm,
Vai kề trí tỉnh rõ càng vươn.
(Niệm Cõi Hương)
Giáo pháp của đức Phật bày ra cho chúng sinh đối trị vọng
tâm, hướng về chân tâm. Để khế hợp với căn cơ hóa giải vọng động, phá bỏ những
chướng ngại, không hề lay chuyển qua thời gian. Khi đã thuần hóa như “Trâu quay
đầu” trong thập mục ngưu đồ, những lăng xăng, những vọng động của tâm không còn,
lúc đó hành giả an nhiên, tự tại tiến đến “ Không còn trâu, không còn người” đó
là chân tâm, đó là Phật :
Nẻo
pháp luôn tìm tu vạn ngã,
Hương
thiền vốn giữ niệm từng câu.
Năng
cầu dạ sáng bền tâm hảo,
Mãi
ủ lòng an thuận tánh đầu.
(Quẳng
Lại)
Hay:
Tâm
buông khỉ lộng lơi năm tháng
Ý
giữ trâu thuần rõ sát - na
Liễu
tánh lìa mê người cải hối
Suy
đời thoát não hướng lần ra
(Bình
Thường Động Tỉnh)
Chốn
thiền môn trang nghiêm, tịch tịnh nơi đây niệm Phật, niệm Pháp chế ngự vọng động,
gan lọc những ô trược bởi tâm mê chấp, đeo bám từ bao đời kiếp. Sân si đã diệt
thì đâu còn thị phi, phải trái, hơn thua:
Chốn
đạo không sân đâu luận biện?
Nẻo
tâm chớ đắm chẳng sinh ghiền.
Thong
dong thấy đủ người càng tiện,
Rộn
rã mong đầy dạ hổng yên.
(Thanh
Thản)
Cũng
cách nhìn ấy, khi chiều buông những tia nắng mờ nhạt len qua từng kẻ lá, cảnh vật,
cánh diều lờ lững theo những dãi mây, đời thường với cảnh ấy vẫn băn khoăn vẫn
thao thức, trăn trở về thân phận về cuộc đời. Với tác giả ngẫm lại… chẳng khác
nhiều, bằng thiền quán:
Trời
nghiêng oải nắng mơn cành liễu,
Gió
lộng chùng mây ẵm dải diều.
Sắp
nẻo thu về đơn phận rỗi,
Qua
mùa hạ đến não đời xiêu.
Thời
gian vật vả bày muôn lối,
Ngẫm
lại… người, ta chẳng khác nhiều.
(Bóng
Chiều)
Người
đời thường nhọc nhằn theo đuổi ước mơ, đuổi bắt không ngừng làm cho khổ, tham
sân si thường đọng mãi trong tâm thức buộc chặt, không cắt được nghiệp ác mà
ngày càng chồng chất. Trầm luân, luân hồi là đó, “niệm xưa”, “nợ cũ”, đuổi bắt
tác giả nhấn mạnh:
Bởi
mãi long đong nên cứ khổ
Vì
còn lận đận vẫn hoài đau
Niềm
xưa quyến luyến dành tâm lực
Nợ
cũ chờn vờn níu trước sau
Đuổi
bắt thời gian ai định sẵn
Năng
cầu chẳng được ắt càng lao.
(Tìm
nhau)
Ơn
cuộc đời đã nuôi dưỡng hình hài nầy, những phương tiện cần thiết để sống, đáp lại
bằng sư yêu thương là từ bi, rộng lượng, khoan dung, rạng rỡ mỗi ngày, tâm nầy
trải khắp cùng thế gian. Khi lòng an thì cõi trần nầy là thiên thai, là cõi
tiên tận hưởng cuộc sống tươi đẹp an vui hòa chung cùng mọi người. Đó cũng là mấu
chốt để hướng đến cõi thường lạc:
Rạng
rỡ ngày lên cùng cõi thế
Yên
bình kiếp mãn ngắm thiên thai
Nguyền
tan ái dục tâm không vướng
Rũ
sạch lòng trần tánh lặng khai
(Nguyện)
Tiếng
rao đêm ở góc phố về khuya, tiếng máy nổ cửa những chuyến xe chở hàng chuyến sớm,
tiếng chổi đưa của người công nhân quét đường. cũng đều hòa nhập, theo thời
gian và luôn có sự cảm thông . Sự lam
lũ, khó nhọc ấy tác giả nhận thức
đúng , đủ để cởi mở lòng hơn với thế gian, cuộc đời:
Hàng
rao đầu ngõ đìu hiu muộn
Xe
rú bên tai rối rắm phiền
Nhập
cảnh vui cùng tuy vẫn ngỡ
Nương
đời nhận cả thế mà yên
(Phố
Khuya)
Về
quê hương cũng là mảng dài tác giả đề cập, bằng tình yêu, nỗi nhớ dần theo năm
tháng, mảnh ruộng, nương vườn, bờ tre, củ khoai, gốc sắn đó là những hình ảnh thân
quen được đề cập trong thơ. Nơi quê hương miền trung đầy nắng, gió, ruộng vườn
đất cày lên sỏi đá nuôi lớn, ươm mần cho tính chân chất, trung thực đi suốt cuộc
đời:
Mảnh
ruộng se niềm căng cõi nhớ,
Nương
hồ trỗi dạ ngẩn thời qua.
Ân
tình mãi đọng theo dòng chảy…
Vẫn
ủ hương đồng mỗi sáng ra…
(Bóng
Quê)
Hay:
Thời
xuân cảnh nhọc lòng không cỗi,
Chốn
lão tâm hòa lợi nỏ mê.
Chẳng
lỡ tình xưa đà ước hẹn,
Còn
thương xóm nhỏ mãi ôm thề.
(Nhớ
Hạ Quê)
Chiến tranh, hoàn cảnh để mãi tha phương, khi nhớ về quê
hương lòng dạ ngổn ngang..Như những kỷ niệm tuổi thơ, bơi lội trên dòng sông nhỏ
Ô Khê vào những trưa hè cùng bạn bè, những lúc hái rau, kiếm củi trên đồi Khe Ải.
Những ký ức đã hằn sâu vào tâm thức để hình thành một nhân cách sống, phép đối
xử hiền hòa, cảm thông mọi khổ đau giữa cuộc đời và nối duyên gặp Phật pháp .
Vì
đang mãi vướng quê biền biệt
Bởi
cứ năng chờ dạ ngổn ngang
Ôm
cả dòng Khê còn sóng nhớ
Mơ
cùng khe Ải ngại chiều loang
(Trông
Về)
Hay:
Đường dài rong ruổi ,chìm dâu bể,
Lối
cũ đong đưa, thấm bụi trần.
Thổn
thức nghĩa tình răng nặng nhẹ?
Mênh
mang ký ức bát rau thuần…(*)
(Tình
Quê)
Thấm nhuần phong tục tạp quán, ảnh hưởng khuôn phép Nho giáo từ bao đời, và cả
truyền thống gia đình lấy hiếu thuận làm căn bản trong đời sống như trong Thanh
Niên Thủ Tắc viết: “hiếu thuận vi tề gia chi bản” (hiếu thảo là gốc
rễ của việc quản lý gia đình). hay Hiếu kinh: “Hiếu thị đức chi bản,
y giáo nhi sinh.” Nghĩa là hiếu thuận là căn bản của đức hạnh, do
giáo dục mà có.
Tác
giả thường đề cập đến chữ hiếu và vượt lên trên nếp sống, nếp nghĩ và khi bắt gặp
chữ hiếu trong đạo Phật., ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ kiểu như thế
gian và làm rạng rỡ tổ tông ra, còn phải tiến xa hơn, bằng cách dẫn
dắt cha mẹ hướng về chánh tín, xa lìa phiền não, đường xấu, vượt
thoát vòng sinh tử, làm cho họ hàng thân thuộc mấy đời được độ, cắt
đứt vĩnh viễn khổ đau trong ba đường luẩn quẩn. Đây chính là đại
hiếu. Kinh Tâm Địa Quán, viết: “Cha mẹ tại tiền như Phật tại thế, gặp
thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật vậy”. và trong kinh Tạp
Bảo Tạng, Đức Phật nói rõ hơn:“Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở
trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà. Muốn có Đế
Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Đế Thích sẵn ở trong nhà. Muốn được tất
cả thiên thần ở trong nhà, chỉ cúng dường cha mẹ, tất cả thiên thần đều ở trong
nhà. Cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị
Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà”. . Dù song thân đã rời xa thế gian nhưng nỗi
đau đáu chưa đáp tròn chữ hiếu còn luôn trăn trở:
Nhớ
cảnh quê nghèo thời xót nỗi,
Hờn
tìm sữa thiếu lúc nằm nôi.
Chưa
lần báo đáp Người đi vội,
Vạn
kiếp ân sâu nghĩa khó hồi…
(Tháng
Bảy Vu Lan)
Từ vùng quê nghèo, nuôi con khôn lớn với bao vất
vả, khó khăn luôn giữ, dạy con cách sống lương thiện, biết yêu thương giúp đỡ mọi
người, vật chất khó khăn nhưng tinh thần luôn trong sáng. Đó là Mẹ là Cha:
Quần
quật ngày đêm hoài cảnh thiếu
Đau
nhừ vai gối chỉ lều thưa
Giản
đơn vạn chuyện nghèo thường lấn
Lặng
lẽ bao thời khổ mãi đưa
(Nhớ
Mẹ Xưa)
Hay:
Hết
cả phần đời nào quản ngại
Nhiêu
khê mọi thứ chẳng nề hà
Theo
hương sống nguyện, sao cho xứng
Con
cháu noi gương rõ phúc nhà.
(Sinh Thành Dưỡng Dục)
Với
bạn bè, tùy duyên thuận cảnh gặp nhau để cùng giúp đỡ, đồng cảm, đồng tu xa lìa
những cố chấp, hẹp hòi, vùi chôn những phiền não, đau thương hướng đến tuệ
giác, giác ngô, hãy cùng nhau tiến bước: Về bến: Đây là bến giác Giác ngạn Bờ
bên kia của giác ngộ, tức cảnh giới của Phật, và thuyền: Trí tuệ Bát nhã ví như
thuyền bè đưa chúng sinh vượt qua biển sống chết, đến bờ Bồ đề, cho nên gọi là
Bát nhã thuyền.
Vùi
chôn não nuột quay về bến…(*)
Bỏ
lại phiền nan dẫn xuống thuyền…(**)
Rang
rỡ ngày lên vui nẻo thắm,
Nương
cùng cõi tịnh để đời yên.
(Thiện
Hữu)
Hay:
Tùy
duyên mỗi kiểu càng vui thấm,
Thuận
cảnh nhiều nơi vẫn xứng tầm (tìm).
Ngẫm
nẻo vô thường…sao sống chậm…
Cùng
nương cõi thế, hiểu ôm chầm.
(Tìm
Nhau)
Ngẫm về cuộc sống thế gian, bởi mãi chìm trong khổ
đau, bế tắc trong cuốc sống là tiếng thở dài. Thế gian là thế nhưng vạn vật vẫn
bình yên, cây vẫn xanh, nước vẫn chảy, người nông dân vẫn ra đồng. Vạn cảnh đều
hòa chung một nhịp. Chỉ khác là riêng con người thở ra, trăn trở:
Mấy
khoảng xuân sang nào chậm lại
Nhiêu
lần hạ đến vẫn đều qua
Thời
yên,vạn vật luôn bình thản
Khổ
mãi con người… cứ thở ra….
(Chuyện
Với Tách Trà)
Lại
ngẫm dòng đời đâu cứ phải…
Hoài
xem nghịch cảnh có chi mà?
Hương
thầm đắng ngọt… đều như thế!
Vạn
vật như như gắng hiểu là…
(Độc
Ẩm)
Vạn
hạnh thiền sư trong bài Thị Đệ Tử (Dặn học trò)
Qua bản dịch của Ngô Tất Tố:
“Thân như bóng chớp, có rồi
không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.”
Cũng nương tinh thần nầy
, khi một nình bên tách trà nghĩ về một kiếp người thật chóng vánh, công danh,
phú quí như sương ngọn cỏ, lấp lánh rồi
rơi, bướm đậu đài hoa chập chờn rồi bay. Chính tạm bợ, phù du ấy mà huân tập mà
dứt đoạn phiền não, sống an nhàn, tự tại:
Phú
quí long lanh… sương ngọn cỏ,
Uy
quyền đỏng đảnh… bướm đài hoa.
Thong
dong chẳng vướng thì vơi khổ
Chóng
vánh duyên trần ngẫm thoát qua…
(Với
Tách Trà)
Tập
thơ đề cập nhiều vấn đề trong cuộc sống, ở mọi khía cạnh, góc nhìn bằng sự thiền
quán, cảm nhận ra giá trị thực để chỉnh lại đời sống.
Vài
dòng khái quát về tập thơ bằng sự cảm nhân riêng mình, chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót ở những góc cạnh khác nhau và cũng mong tác giả thông cảm thứ lỗi.
Tháng
12/ 2022
Giác
Đức – Nguyễn Duy Nhiên
ĐỌC
VÀ CẢM NHẬN TUYỂN TẬP THƠ CỦA CƯ SĨ MINH ĐẠO
Hầu hết những học trò, thân
hữu đều biết cư sĩ Minh Đạo là một nhà thư pháp, là một nhà thơ chuyên về thể
thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Tôi cũng đã được đọc và cảm nhận một số tác phẩm
thơ của cư sĩ như Đường Chiều, Quay Về, Hương Đời, Đồi Cảnh Tùy Duyên, Về Nguồn,
Hạnh Nguyện…Thư pháp của Minh Đạo với những nét bút phóng khoáng hào hoa, cứng
cáp mà bay bướm, chân phương nhưng thoáng đạt nhìn vào là biết ngay không lẫn với
ai được. Về thơ thì cư sĩ chuyên dùng thể loại thất ngôn bát cú Đường luật để
thể hiện, ông cũng thử nghiệm một vài thể loại khác nhưng với tôi thì chỉ xem
đây là những bài thơ được viết bởi “tay
trái” của ông!.
Tuyển tập thơ của Minh Đạo gồm
500 bài thơ được tuyển từ 8 tác phẩm thơ đã xuất bản và các bài thơ đã đăng
trên các trang web Thư Viện Hoa Sen, Trang Nhà Quảng Đức, Đạo Phật Ngày Nay,
Hoa Vô Ưu, Hoa Linh Thoại, Phathocdoisong, Nguyệt san Chánh Pháp, Sài Môn Thi
Đàn, Poem Tkaraoke.
Tuyển tập thơ xoay quanh chủ
đề về kiếp sống nhân sinh với những cảm nhận về luật vô thường, những khổ đau chồng
chất của kiếp sống chúng sanh và hành trình tu tập để tìm cho mình một sự an lạc,
sự thanh thản hạnh phúc trong tâm hồn, sự tự tại vô ngại trước những nhiểu
nhương của cuộc sống. Một đề tài khác cũng khá quen thuộc là tình cảm cha mẹ,
ca ngợi công ơn sanh thành dưỡng dục với những tình thương và sự hy sinh vô bờ
bến của các đấng sanh thành. Một đề tài khác cũng được ông nhắc đến là tình cảm dành cho quê hương là nơi ông đã trải
qua những tháng ngày thơ ấu với những kỷ niệm êm đềm dưới mái nhà xưa tuy nghèo
khó nhưng ngập tràn hạnh phúc được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ,
và giờ đây sau bao tháng ngày phiêu bạt xứ người, khi dòng đời đang đổ bóng
hoàng hôn ông vẫn nhớ thương, hoài niệm về những tháng ngày hạnh phúc đó với nững
nuối tiếc khôn nguôi!
Để cho những dòng cảm nhận
này tự nhiên trôi chảy theo những cảm xúc mà tác giả đã trang trải trong những
câu thơ, tôi xin đi vào dòng đề tài về hành trình tu tập tìm về sự giác ngộ, giải thoát khỏi những khổ
đau của kiếp nhân sinh mà
hơn bảy thập niên tác giả sống
trên trần thế đã trải nghiệm. Chúng ta hãy nghe ông cảm nhận về cuộc đời
Thế gian lận đận hoài chưa dứt
Sáu nẻo lòng vòng mãi lệ rơi
(Nghĩ về)
Sáu nẻo đây là lục đạo , theo quan niệm của Phật
giáo thì vạn loại chúng sanh do nghiệp báo
đã tạo tác mà cứ luân
hồn trong sáu cõi đó là Trời,
Người, Atula, Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sanh. Địa Ngục. Muốn
thoát ra khỏi cảnh giới đó không có gì khác hơn là phải “Tự mình thắp
đuốc lên mà đi” bằng hành trình tu tập theo chánh pháp để đoạn
trừ tham sân, si, bỏ việc ác làm việc lành, gieo trồng các thiện nghiệp, đoạn trừ vô minh, phiền não...chuyển
hóa tâm thức tìm được sự
an lạc, hạnh phúc ngay trong kiếp sống
hiện tại và sẽ thoát ra ngoài vòng luân hồi trong lục đạo đó. Trước hết là phải đoạn trừ những nghiệp ác đã gieo trong
quá khứ
Nhìn qua chuyện cũ như làn khói
Giữ nẻo tâm lành thấy tịnh môn
(Bình yên)
Tác giả đã cảm nhận được sở
dĩ chúng sanh còn mãi lận đận
trong ba đường, sáu
cõi vì và đã tạo tác các nghiệp ác, thế nên vô minh và ái dục đã che mờ tất cả
Nghiệp đã nhiều thời qua khắp nẻo
Duyên còn vạn thưở đến nhiều nơi
(Lối cũ)
Đó là “lối cũ”,
một lối cũ đã trải qua vô lượng kiếp
bởi vô minh và ái dục dẫn dắt mà ta mãi lang thang hoài trong biển khổ trầm luân như thế, càng ngày
càng xa dần nguồn cội không biết đâu là bến bờ để quay về !
Để rồi một lúc nào đó hành giả chợt nhận ra rằng
thì ra trong muôn kiếp qua ta đã trôi lăn hoài trong bể sanh tử khổ đau như kẻ
lữ khách loanh quanh trong tử lộ mà không
hề thấy được ánh sáng cuối đường hầm, thế là chợt suy tư
Ngẫm lại ôm phiền chỉ khổ đau
Thân người bọt bóng sẽ về đâu?!
(Ngẫm)
Khi đã giật mình tỉnh thức, khi đã ý thức được mình qua vô lượng kiếp
đã lang thang hoài như thế, qua vô lượng kiếp đã trôi mãi trong
vòng sanh tử với những khổ đau chồng chất như thế hành giả quyết quay về nương
tựa vào “hải đảo tự thân” và bắt đầu một hành trình mới.
Hành trình tu tập của cư sĩ Minh
Đạo được thể hiện qua những vần thơ mang nặng dấu ấn của thiền gia, bằng sự thanh lọc thân, tâm. Trước hết là phải quyết tâm buông xả, quăng đi những thứ mà trước đây vì ái dục mình đã lưu giữ, đã nâng niu, chiều chuộng nó
Nẻo pháp luôn tìm tu vạn ngả
Hương thiền vốn giữ niệm từng câu
(Quẳng đi)
Khi hành giả đã ý thức một cách sâu sắc rằng:
Hơn thua tính toán thì đau buộc
Được mất so bì chỉ khổ câu
(Buông xả)
Muốn buông xả, để tìm sự
thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, không
gì khác hơn là quay về tu tập với giáo lý Phật-đà,
Già-lam
quảng bá
lòng thanh tịnh
Gõ nhẹ
đường trần biết tỉnh say
(
An lạc)
Nương theo giáp pháp Phật-đà
để tu tập vượt thoát khổ đau
Già lam học đạo nương kinh giáo
Phật pháp đưa bè rõ chánh tông
(Trăng rằm tỏa sáng)
Tác giả đã quay về an trú
trong hiện tại, đoạn trừ những khổ lụy trong quá khứ, không mơ màng tương lai
hư ảo vì biết rằng chỉ có giây phút hiện tại là mầu nhiệm, nó mầu nhiệm vì giúp
ta chuyển hóa những khổ đau để tìm đến bến bờ giác ngộ chứ cứ hoài niệm về quá khứ, cứ mơ mộng về tương lai thì chẳng giúp ích gì cho mình trên con đường
tu tập vượt thoát sanh tử cả
Quá
khứ dần qua thôi khổ lụy
Tương lai chưa tới mãi vui cười
(Tâm
bình).
Trong hành trình quay về với cội nguồn uyên nguyên của mình sau vô
lượng kiếp trầm
luân trong ba cõi,
sáu đường, tôi tin là với chí
nguyện ấy, sự
quyết tâm ấy sẽ giúp cho
hành giả tìm thấy cho mình sự thanh tịnh, an lạc, thong dong tự tại giữa chốn Ta-bà uế trược chất đầy khổ đau phiền não nầy
ngay trong phút giây hiện tại và ngay trong từng cuộc sống hiện tại này mà không chờ đến khi xã báo thân mới mong sinh
về một cảnh giới an lành. Vì
cảnh giới đó là hoa , là trái, là quả của nhân lành mà chính hành giả đã gieo,
đã vun trồng
trong cuộc sống hiện tại này.
Một đề tài khác mà cư sĩ Minh
Đạo yêu thích thường bày tỏ trong các tác
phẩm của mình đó là niệm ân công ơn cha mẹ. Tác giả đã được sinh ra và lớn lên từ một mảnh đất khô cằn sỏi đá khi
mùa đông về thì mưa phùn gió bấc với cáí
rét cắt da cắt thịt , mùa hè sang thì những ngọn gió nam lào thổi thông thốc khiến con người, vạn vật như khô quắt đi dưới cái nóng cháy bỏng thịt da.Trong hoàn cảnh gian khổ đó cư sĩ đã được cha mẹ nuôi lớn khôn bằng những
giọt
mồ hôi mặn chát đổ xuống ruộng
đồng khô cằn đó. Bởi vậy giờ cho dù hiện
nay đường đời đã đổ bóng về chiều nhưng ký ức những
năm tháng tuổi thơ gian khổ vẫn in đậm nét trong tâm thức và cảm nhận về sự hy
sinh vô bờ bến của cha,
mẹ đã suốt đời hy sinh cho mình vẫn luôn đau đáu trong lòng. Thế cho nên tác giả
luôn nhủ lòng
Công ơn dưỡng dục sao đền đáp
Đạo hiếu tròn tu giữ nguyện thề
(Song thân)
Sự cảm nhận về công ơn trời
biển của hai đấng sinh thành
luôn được tác giả khắc cốt ghi tâm
Đoạn
trường chân chất nhờ ơn Mẹ
Giữ lối hiền hòa cảm đức Cha
(Sanh thành dưỡng dục)
Sự tri ân đến những đấng sanh thành còn đậm đà hơn nữa khi song
thân đã khuất
bóng
Dưỡng dục sanh thành ai hiểu thấu
Muôn trùng cách biệt nghĩa tình sâu
(
Nhớ mẹ)
Nhớ thương và cảm nhận tình
cảm và sự hy sinh của cha mẹ cho mình, để rồi sống đạo trong đời, tu tập để trở thành người thiện lương, giáo dục con cháu sống hiếu đạo, có ích cho đời, cho đạo, cho
gia đình, cho xã hội, đó là một hình thức báo hiếu thù thắng nhất mà cư sĩ Minh Đạo đang
thực hành trong cuộc sống.
Từ những tình cảm sâu xa về
cha mẹ với những hoài niệm về những kỷ niệm đẹp thưở ấu thời dưới mái nhà tranh
trong một thôn nghèo đã in dấu ấn đậm nét trong tâm thức, thế nên tác giả cũng
có những vần thơ viết về quê hương với những tình cảm dạt dào
Rộn rã chiều về quanh khóm trúc
Tưng bừng nắng chiếu khắp vườn ngâu
Quê hương một thưở còn in đậm
Nghĩa tổ bao đời vẫn khắc sâu
(
Tuổi thơ)
Quê hương và tuổi thơ luôn
là những kỷ niệm đẹp mà biết bao thi nhân đã diễn bày, đặc biệt đối với cư sĩ Minh
Đạo thì những kỷ niệm đó còn sâu sắc hơn nữa vì gắn liền với hình bóng mẹ cha
qua bao tháng ngày lam lũ
Giữ mãi ân tình theo nghĩa vọng
Xa dần đất tổ cảm đời vương
Áo cơm mẹ gánh nuôi con chữ
Sách vở cha lo sáng chặng đường
(Quê
hương)
Khép lại tuyển tập thơ của
cư sĩ Minh Đạo lòng tôi cứ bâng khuâng mãi vì như đã trải qua một cuộc hành
trình vạn dặm cùng với tác giả chiêm nghiệm, cùng buồn cùng vui, cùng song hành
trên một hành trình tìm về bến bờ giác
ngộ với muôn vàn chướng duyên, nghịch cảnh, với muôn vàn nội ma và ngoại chướng.
Nhưng với chí nguyện kiên cường thể hiện qua lối sống đậm mùi thiền vị thì dù
cho thuyền đời phải chịu nhiều phong ba bão táp nhưng bến bờ giác ngộ ắt sẽ có
ngày đạt đến. Tôi tin như thế và tôi vẫn luôn hằng mong cư sĩ Minh Đạo sẽ sớm hoàn
thành chí nguyện.
Trước mắt là tập thơ của ông
sẽ được thân hữu, bạn đọc hằng yêu mến thơ ông hưởng ứng nồng nhiệt.
Trọng
Đông Nhâm Dần
Tâm Lễ