Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

CỘI RỄ CỦA SỰ TRƯỞNG THÀNH

       

 
Trưởng thành là một quá trình thay đổi qua nhiều đau đớn và thử thách sức mạnh thật sự của một con người. Một con người phải đương đầu với chông gai, để tôi luyện bản thân, để biết được rằng sức mạnh không đến từ người khác mà đến từ bên trong bản thân mình. “Sức mạnh của con người định hình trong chính sự yếu đuối của người ấy” (Raipl Waldo Emerson

   Hồi còn nhỏ, tôi có một người hàng xóm mà mọi người gọi là bác sĩ Gibbs. Ông không giống như bất kỳ bác sĩ nào tôi từng biết. Ông rất giản dị và hiền từ, nhất là đối với bọn nhóc nghịch ngợm chúng tôi.
   Ngoài giờ làm công việc cứu người, bác sĩ Gibbs thường trồng cây. Ông muốn biến mảnh đất rộng 10 mẫu tây của mình thành một khu rừng mà! Vị bác sĩ hiền lành ấy có những lý thuyết trồng cây rất thú vị, ngược hẳn với nguyên tác mà mọi người cho là hiển nhiên. Không bao giờ ông tưới nước cho những cây mới sinh trưởng – ông giải thích với tôi rằng tưới nước sẽ làm chúng sinh ra hư hỏng, và thế hệ cây kế tiếp sẽ ngày một yếu đi. Vì thế, cần phải tập cho chúng đối mặt với khắc nghiệt. Cây nào không chịu nổi sẽ bị nhổ bỏ ngay từ đầu.
  Rồi ông hướng dẫn cho tôi cách tưới nước cho những cây rễ mọc trên cạn, để chúng khô hạn thì sẽ phải tự bén rễ sâu mà tìm nguồn nước. Thảo nào, chẳng bao giờ tôi thấy ông tưới cây cả. Ông trồng một cây sồi, mỗi sáng thay vì tưới nước, ông lấy tờ báo cuộn tròn lại và đập vào nó: Bốp! Bốp! Bốp! Tôi hỏi ông sao lại làm vậy thì ông trả lời: để làm nó chú ý.
Bác sĩ Gibbs từ giã cõi đời hai năm sau khi tôi xa gia đình. Giờ đây, về nhìn lại những hàng cây nhà ông, tôi lại như mường tượng ra dáng ông đang trồng cây 25 năm về trước. Những thân cây ngày ấy nay đã lớn mạnh và tràn trề sức sống. Như những thanh niên cường tráng, mỗi sáng chúng thức dậy, tự hào ưỡn ngực và sẵn sàng đón nhận những gian nan, thử thách.
  Vài năm sau tôi cũng tự trồng lấy hai cây xanh. Mùa hè cháy nắng tôi tưới nước, mùa đông giá rét tôi bơm thuốc và cầu nguyện cho chúng. Chúng cao gần chín mét sau hai năm, nhưng lại là những thân cây luôn dựa dẫm vào bàn tay người chăm bẵm. Chỉ cần một ngọn gió lạnh lướt qua, chúng đã run rẩy và đánh cành lập cập – trông chẳng khác gì những kẻ yếu đuối!
  Chẳng bù với rừng cây của bác sĩ Gibbs. Xem ra nghịch cảnh và sự thiếu thốn dường như lại hữu ích cho chúng hơn sự đầy đủ.
  Hằng đêm trước khi đi ngủ, tôi thường ghé phòng hai đứa con trai và ngắm nhìn chúng ngủ ngon lành. Nhìn thân thể nhỏ bé đang phập phồng nhịp thở của cuộc sống, tôi luôn cầu nguyện cho chúng có một cuộc sống dễ chịu.
  Nhưng gần đây, tôi chợt nghĩ đã đến lúc cần phải thay đổi lời nguyện cầu ấy. Tôi nguyện cầu cho chúng mạnh mẽ hơn, để chịu được giông gió không thể tránh trong cuộc đời. Có ngây thơ mới mong chúng thoát khỏi gian khổ – bởi lẽ nghịch cảnh, khó khăn luôn là điều hiện hữu tất yếu. Và dù muốn hay không, cuộc đời chẳng bao giờ bằng phẳng cả. Tôi cầu mong cho ‘gốc rễ’ của con mình sẽ bén thật sâu, để chúng có thể hút được sức mạnh từ những suối nguồn tiềm ẩn trong cuộc sống vĩnh hằng.
   Thật sự nhìn lại, tôi đã cầu xin sự an lành quá nhiều rồi, nhưng rất hiếm khi những ước muốn ấy được thỏa nguyện. Điều chúng ra cần là cầu sao cho mình rèn luyện được một cơ thể cường tráng và ý chí cứng cỏi, bền vững, để khi nắng cháy hay mưa dông, bão tố, chúng ta sẽ không bao giờ bị gục ngã.

                  http://ima.edu.vn/qua-tang-cuoc-song-coi-re/#sthash.jiXMs1FI.dpuf

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

MẨU BÁNH MỲ


   Trong chiến tranh thế giới thứ hai có hai người tù Do Thái trốn thoát khỏi trại tập trung. Họ chạy thục mạng và quyết định chia làm hai ngả.
  Người tù già nắm chặt tay người tù trẻ, đắn đo một lúc rồi nói:
"Này cháu, ta chỉ có một mẩu bánh mỳ, cháu hãy cầm lấy, ta già rồi, chịu đói được lâu hơn cháu. Nhưng cháu hãy hứa với ta rằng: chỉ khi nào cháu không còn một cách nào khác để có cái ăn thì cháu mới giở miếng bánh này ra. Trong rừng có nhiều thứ ăn được. Nếu đến chỗ có dân cháu có thể làm thuê kiếm miếng ăn. Đường từ đây về nhà còn xa lắm. Nếu trong túi vẫn còn một miếng bánh thì cháu vẫn còn có thể chịu đựng được mọi gian truân"
  Người tù trẻ cảm động, hứa với ông già, nắm chặt lấy mẩu bánh mỳ rồi lao đầu chạy.

  Ròng rã bao nhiêu ngày đêm anh nhằm hướng quê nhà mà chạy, khi thì phải lẩn lút trong rừng, khi thì băng cánh đồng. Anh hái quả rừng, lội suối tìm cá, khi gặp những người chăn cừu anh bẻ củi đến cho họ để nhận một bát sữa, hay một miếng thịt cừu thơm lừng.
  Đã có lúc anh tưởng chừng không còn cách nào khác để có một miếng ăn. Để tránh né bọn Đức, anh lẩn lút qua đầm lầy, trong cái nóng hầm hập, xung quanh chỉ một màu xám xịt của lau sậy.
  Không biết bao nhiêu lần anh rút mẩu bánh mỳ đã khô cứng như đá ra khỏi túi. Anh ngắm cái gói nhỏ gói bằng một miếng vải thô, quấn thật chặt và buộc bằng một sợi dây gai thắt nút. Cái gói chỉ bằng nửa miếng xà phòng, chắc mẩu bánh mỳ còn bé hơn. Song anh vẫn nuốt nước miếng, nghĩ đến vị bột ngọt ngào trên đầu lưởi, chắc là có chút ẩm mốc. Anh nhìn cái gói nhỏ rồi lại đút vào túi, bởi anh kinh hoàng nghĩ đến ngày mai, túi rỗng không mà đường thì còn xa lăng lắc.
  Cứ thế anh đi ròng rã và cuối cùng cũng đến cái ngày anh ngã nhào vào tay người thân. Sau những phút vui sướng khóc cười, anh rút ra cái gói nhỏ đã bẩn thỉu hôi hám song vẫn được quấn rất chặt. Anh nói " mẹ ơi, nhờ mẩu bánh này đây mà con thoát chết trở về". Anh cảm động gỡ nút dây, mở lần vải bọc và sững sờ: đó chỉ là một miếng gỗ được gọt đẽo vuông vức như một mẩu bánh mỳ!
 *Bài học kinh doanh: 
Hãy luôn giữ cho mình 1 khoản tiền tiết kiệm, dù có tiêu hết những khoản tiền còn lại thì cũng không được dùng đến chúng. Hãy luôn nghĩ trong đầu, ta vẫn còn chúng thì ta không thể nào chết được. Và, ta phải tìm kiếm như thế nào để tạo ra được những đồng tiền tiếp theo.
 *Bài học cuộc sống: 
Tự tạo cho mình những mẩu bánh mì chứa đầy hi vọng và niềm tin. Sự khác biệt giữa thành công và thất bại chỉ trong gang tấc. Anh ấy thành công vì sự kiên định và có niềm hi vọng. Nếu nhụt chí, từ bỏ và mở gói bọc ra thì anh ta có lẽ sẽ chẳng bao giờ về đến nhà.
                                                             Sưu tầm

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

CHUYỆN NHỎ ! "Thằng Rái Cá"


   Ở một vùng quê bên nước Anh, có gia đình nọ chuyên nghề làm vườn, gồm hai vợ chồng và đứa con trai duy nhất. Vì hoàn cảnh quá nghèo nên cậu con chưa học hết tiểu học đã phải ở nhà giúp đỡ cha mẹ việc trồng tiả, hoặc đôi khi lên rừng lấy củi, kể cả việc câu cá ở một cái hồ lớn rất đẹp gần nhà để thêm lương thực cho bữa ăn. Trong các việc làm phụ giúp cha mẹ, cậu bé thích nhất là đi câu, bởi vì mỗi buổi đi câu là mỗi lần được tắm, bơi thỏa thích. Cậu bơi tuyệt giỏi, đến mức bạn bè trong xóm gọi cậu là "thằng Rái Cá" (Otter boy).
   Một hôm, khi "thằng Rái Cá" cắm xong mớ cần câu ở góc hồ, đang tính cởi áo nhào xuống nước bơi một tăng cho đã đời, thì nó thấy 3 chiếc xe limousine sang trọng trờ tới đậu ngay gần đó nên nó khớp không tắm nữa, leo lên cây đại lăng ở cạnh hồ, núp mình trong tàng lá để canh chừng cần câu và cũng để ngắm nhìn toán du khách sang trọng.
  Toán du khách đó chính là một gia đình giầu có, quyền qúy, vào hàng đệ nhất qúy tộc của vương quốc Anh. Họ từ thủ đô Luân Đôn đi du ngoạn miền quê, thăm dân cho biết sự tình. Dưới trời nắng đẹp ấm áp, một cái tăng lớn được căng lên lộng lẫy. Bàn ghế picnic bầy ra và thức ăn, cao lương mỹ vị dọn tràn đầy. Tiếng nhạc êm đềm réo rắt tỏa vang rồi đoàn du khách nhập tiệc. Kẻ ăn, người uống, kẻ khiêu vũ, người chụp hình ...
Một lát sau, "thằng Rái cá" ngồi thu mình trên cành cây đại lăng, nhìn thấy một đứa trẻ trong đám du khách, chắc cũng 11, 12 tuổi, cỡ tuổi nó, thay đồ tắm và lội xuống hồ bơi qua bơi lại. Dường như những người lớn chăm chú vào việc ăn uống chuyện trò, không mấy ai để ý đến đứa trẻ ở dưới hồ. Riêng "thằng Rái Cá" nó tò mò quan sát đứa trẻ...
  Ồ, coi kìa, thằng này bơi gì dở ẹc! Rõ ràng là nó không biết bơi ếch, bơi sải, bơi bướm gì cả, đến bơi ngửa chắc cu cậu cũng chẳng làm được! Nó chỉ đập loạn tay chân lên thôi, cái điệu bơi chó như thế là không khá được!
Chợt "thằng Rái Cá" nhoài mình ra chăm chú nhìn. Nó thấy 2 con thiên nga từ xa bơi tới phía đứa trẻ và đứa trẻ chắc là thích con thiên nga nên bơi theo ... Chết chưa ! Nó bơi tuốt ra xa quá rồi, chỗ đó rất sâu, nguy hiểm lắm! Đúng lúc đó, có tiếng thét cấp cứu của đứa trẻ "Help me! Help...Help! !!" Toán du khách khi ấy kịp nghe và nhìn thấy, nhưng thay vì phải nhào ra cứu đứa trẻ thì họ ồn ào, nhốn nháo cả lên. Hai ba người xuống hồ với cả áo quần, nhưng chỉ lội ra nước đến cổ thì đứng lại.
  Trời đất! Hóa ra chẳng ai biết bơi cả mà ngoài xa đứa trẻ đuối sức có vẻ muốn chìm rồi!
  Không đợi lâu hơn được nữa, từ trên cành cây cao, "thằng Rái cá" phóng xuống chạy bay ra hồ trước con mắt ngạc nhiên của tất cả đoàn du khách. Tới bờ cao, nó nhún mình lao xuống nước trong tư thế plunge tuyệt đẹp và chỉ loáng mắt đã sải tay bơi tới chỗ đứa trẻ bị nạn. Nó hụp lặn xuống xốc nách đứa trẻ và như một chuyên viên rescue lành nghề, nó nghiêng người bơi sải từ từ vào bờ trước sự chứng kiến xúc động và tràng pháo tay reo mừng của mọi người. Khi tới bờ, đứa trẻ bị nạn được nhiều người xúm lại khiêng lên đưa vào giữa tăng và tại đó có sẵn một vị bác sĩ (trong toán du khách) lo việc cấp cứu hồi sinh cho đứa trẻ.
  Chừng một tiếng đồng hồ sau, không khí an toàn tươi vui trở lại với mọi người trong toán du khách. Đứa trẻ qua tai nạn hiểm nguy, bây giờ quấn mình trong chiếc mền len và đang được uống mấy muỗng soup. Lúc ấy người ta mới chợt nhớ tới vị ân nhân vừa cứu sống nó.
- Ô hay, cái thằng bé con bơi giỏi hồi nãy đâu rồi nhỉ ?
  Mọi người đổ xô đi tìm. Lát sau phát giác ra chỗ ẩn của nó. "Thằng Rái Cá" trèo lên ngồi yên chỗ cũ, trên cành cây đại lăng. Nó được gọi xuống và trịnh trọng đưa tới trình diện trước một vị quý tộc, ông này chính là cha của đứa trẻ vừa bị nạn.
- Hỡi con, (vị quý tộc nói với "thằng Rái Cá") con vừa làm một chuyện vĩ đại mà tất cả chúng ta đây không ai làm được. Ta xin thay mặt toàn thể cám ơn con.
- Bẩm ông, ("thằng Rái Cá" lễ phép thưa) con có làm gì vĩ đại đâu! Bơi lội là nghề của con mà! Con cứu em là chuyện nhỏ, chuyện phải làm và cũng là chuyện thường đâu có gì khó khăn vĩ đại. Xin ông đừng bận tâm !
- Không đâu con ơi ! con đã cứu mạng con trai ta. Gia đình ta và hội đồng quý tộc mãi mãi mang ơn con. Nay ta muốn đền ơn con, vậy con muốn điều gì hãy nói cho ta biết.
"Thằng Rái Cá" nghe hỏi vậy, ngập ngừng giây lát rồi ngỏ ý muốn xin vài ổ mì dư thừa đem về cho cha mẹ. Lòng hiếu thảo của nó đã khiến cho vị
quý tộc và nhiều du khách cảm động rơi lệ. Vị quý tộc ôm nó vào lòng và nói:
- Hỡi con, điều con vừa xin là chuyện nhỏ, và đó chính là bổn phận của ta, ta biết ta sẽ phải làm gì cho con và gia đình con. Nhưng câu hỏi của ta là sau này lớn lên con ước mơ sẽ làm gì ?
"Thằng Rái Cá" chỉ tay vào vị bác sĩ khi nãy cấp cứu hồi sinh cho đứa trẻ bị nạn, trả lời:
- Lớn lên, con muốn làm việc cứu người như ông kia.
- Ồ, con muốn làm bác sĩ, tốt lắm! Với ta đó cũng là chuyện nhỏ thôi, ta sẽ giúp con.
 Câu chuyện nhỏ trên đây có phần kết luận không nhỏ mà thật là vĩ đại, bởi vì đứa trẻ bị chết đuối hụt có tên là Winston Churchill, sau này là vị Thủ Tướng đã làm rạng danh nước Anh, một vĩ nhân cực kỳ tài giỏi lỗi lạc của thế giới vào thời Đệ Nhị Thế Chiến.

- Còn "thằng Rái Cá", cậu bé đã cứu mạng Churchill tên là Fleming, sau này trở thành vị bác sĩ tài ba lừng danh hoàn cầu. Fleming, chính là nhà bác bọc đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicilin, cứu mạng biết bao nhiêu người trên thế giới. Ông đích thực là vị ân nhân vĩ đại của cả nhân loại. 
Từ khởi đầu, chuyện chỉ là một chuyện nhỏ, sự hy sinh, vị tha, sự cho đi rất nhỏ nhoi! Nhưng nhờ đó, thành quả sau này đem đến cho cả nhân loại đã vô cùng lớn lao kỳ vỹ.
  Câu chuyện còn thêm cho phần kết luận điều lý thú nữa, là một ngày nọ, thủ tướng Churchill bị lâm trọng bịnh đến nỗi đã hôn mê, nhiều bác sĩ phải lắc đầu. Tính mạng ông ở vào lúc nguy kịch nhất, thì Fleming xuất hiện như một tiền duyên định mệnh và vị bác sĩ tài ba này, đã lại một lần nữa cứu sống người bạn cố tri của mình. Khi tỉnh dậy sau cơn mê, mở mắt ra nhìn thấy Fleming, Churchill ngạc nhiên xúc động và nói rằng:
- Fleming ! Có phải cứ mỗi lần tôi sắp chìm, Chúa lại cho bạn tới vớt tôi lên?
- Churchill, chúng ta hãy cám ơn Chúa! Nhưng không hẳn là tôi, (Fleming giơ ra một viên thuốc nhỏ tí xíu) bởi cái này đây, chính cái này đã cứu bạn đó (không có Chúa cứu đâu)... Chuyện nhỏ mà!

(Câu chuyện này được lan truyền trên Internet nhưng không phải là một câu chuyện có thật trong lịch sử. Xem bài viết dưới đây của Phan Hạnh)

....Nhưng tiếc thay đó (câu chuyện bên trên) lại không phải là một câu chuyện thật trong lịch sử. Đó chỉ là một trong nhiều huyền thoại được con người thêu dệt dựng lên quanh nhân vật chính khách lỗi lạc Winston Churchill của nước Anh. Huyền thoại trong câu chuyện Thằng Rái Cá đã được một cơ quan thẩm quyền là Trung Tâm và Bảo Tàng Viện Churchill tại Các Phòng Hành Quân của Nội Các Chiến Tranh ở Luân Đôn (The Churchill Centre and Museum at The Cabinet War Rooms, London) chính thức lên tiếng bác bỏ. (Nguồn mạng: http://www.winstonchurchill.org/learn/myths/myths/fleming-saved-him-from-drowning).
Trước khi đọc qua lời lên tiếng chính thức của Bảo Tàng Viện Churchill, thiết tưởng chúng ta nên đọc lại câu chuyện Thằng Rái Cá tại địa chỉ các trang mạng đã dẫn. Hoặc chúng ta có thể xem câu chuyện chưa “bị” thêm thắt râu ria, lần đầu tiên được gửi đến Viện Bảo Tàng Churchill ngày 16 tháng Sáu năm 2000 bởi một người tên Rob Burge, địa chỉ rburge@jaguar.com. như sau:
“Tên ông đó là Fleming, và ông ta là một nông dân Tô Cách Lan nghèo. Một ngày nọ trong khi làm việc trong nông trại để nuôi sống gia đình, ông nghe tiếng kêu cầu cứu của ai đó từ vũng lầy gần bên vang lại. Ông buông đồ dùng đang cầm trên tay và chạy về hướng đó. Ông thấy một cậu bé đang vùng vẫy la thét dưới vũng bùn đen ngập tới thắt lưng. Ông nông dân Fleming đã cứu cậu bé thoát khỏi cái chết từ từ và kinh khủng. Ngày hôm sau, một chiếc xe ngựa sang trọng đỗ xịt trước ngôi trại xác xơ của Fleming. Một người quí phái ăn mặc lịch lãm bước ra và tự giới thiệu mình chính là cha của cậu bé mà nông dân Fleming đã cứu sống. Nhà quí phái nói: “Ông đã cứu con tôi, vậy tôi muốn đền tiền cho ông.”
Ông nông dân Fleming xua tay khước từ và đáp: “Không! Tôi không thể nhận món tiền nầy. Điều tôi làm chỉ là bản năng tự nhiên chứ không phải tôi làm để mong được đền đáp.” Vừa lúc đó, con trai của người nông dân từ trong ngôi nhà tồi tàn bước ra. Nhà quí tộc hỏi: “Phải con ông đó không?” Người nông dân hãnh diện đáp: “Phải.” Nhà quí tộc nói: “Vậy tôi xin thương lượng với ông như vầy, để tôi đem con ông theo và nuôi cho cậu ăn học thành tài. Nếu cậu có tánh tình tốt giống cha cậu, sau nầy cậu sẽ trở thành một người làm cho ông hãnh diện.” Và ông đã làm đúng như thế. Cậu con của ông nông dân Fleming đã tốt nghiệp Trường Y Khoa St. Mary ở Luân Đôn và sau đó đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Cậu bé đó chính là Alexander Fleming, cha đẻ của thuốc trụ sinh Penicillin.
Nhiều năm sau, người con trai của nhà quí tộc bị sưng phổi, và đã được cứu mạng bởi thuốc Penicillin. Còn tên của nhà quí tộc ư? Đó chính là Randolph Churchill. Còn tên người con của ông ta? Winston Churchill.”

Và sau đây là sự thật do Viện Bảo Tàng Churchill đưa ra.
Hỏi: Có đúng là Alexander Fleming đã cứu mạng Churchill?
Đáp: Câu chuyện cho rằng nhà bác học Alexander Fleming (hoặc cha của ông ta, tùy theo cách sắp xếp khác nhau của câu chuyện) đã cứu mạng Churchill từng lan truyền trên Internet trong thời gian qua. Ít nhất có năm mươi bức điện thư gửi về Viện Bảo Tàng nói về chuyện nầy. Nghe cảm động thật đấy, nhưng đó là chuyện hoàn toàn hư cấu. Câu chuyện đó xuất hiện trong Chương sách có tựa đề “The Power of Kindness”, Sức Mạnh của Nhân Từ, phát sinh từ quyển sách Các Chương Trình Thờ Phượng Dành Cho Thiếu Nhi của hai tác giả Alice A. Bays và Elizabeth Jones Oakbery xuất bản trong thập niên 1950 bởi một cơ quan tôn giáo Hoa Kỳ. Theo hai bà tác giả nầy, Churchill được một cậu trai quê mùa tên Alex cứu khỏi chết đuối tại một hồ nhỏ ở Tô Cách Lan. Mấy năm sau đó, Churchill gọi điện thoại cho Alex bảo rằng để đền ơn, cha mẹ cậu sẽ đỡ đầu cho Alex theo học trường y. Alex tốt nghiệp hạng danh dự năm 1928 và khám phá ra rằng có loại vi khuẩn không thể phát triển trên một số mốc rau cải. Năm 1943, khi Churchill bị bệnh ở Cận Đông, penicillin, phát minh tuyệt vời của Alex, được gửi bằng phi cơ để kịp thời cứu Churchill. Thế là Alexander Fleming một lần nữa đã cứu mạng của Winston Churchill.
Nhưng vấn đề cội rễ của câu chuyện là chứng sưng phổi của Churchill không phải được chữa khỏi bằng penicillin mà bằng thuốc M&B, tên rút gọn của thuốc sulfadiazine bào chế bởi Hãng Dược Phẩm May&Baker. Bệnh sưng phổi khá trầm trọng của Churchill là do vi khuẩn tấn công chứ không phải bị nhiễm trùng. Khỏi bệnh nhờ M&B, Churchill mừng lắm và gọi hai bác sĩ riêng của ông, tên Moran và Bedford, là M&B. Không có bằng chứng, tài liệu hay hồ sơ lưu trữ nào cho thấy ông dùng penicillin cho lần sưng phổi trong thời chiến đó cả. Mãi sau nầy gần lúc cuối đời ông có bị nhiễm trùng vài lần và có dùng thuốc trụ sinh ampicillin mà lúc bấy giờ đã trở nên khá phổ biến rồi. Theo Nhật Ký của Đức Ông Moran (Diaries of Lord Moran, nhà xuất bản Houghton Muffin, Boston năm 1966, trang 335), bác sĩ riêng của Churchill, thì Churchill có hỏi ý kiến của Sir Alexander Fleming ngày 27 tháng Sáu năm 1946 về sự nhiễm trùng khuẩn tụ cầu; nhung Churchill không hề dùng penicillin vì khuẩn tụ cầu đề kháng loại thuốc trụ sinh nầy.
Người viết tiểu sử chính thức của Churchill là Sir Martin Gilbert kể thêm rằng sự chênh lệch về tuổi tác của Churchill và Fleming (hoặc cha của Fleming) đều không thể hỗ trợ cho các cách thuật lại khác nhau của câu chuyện. Alexander Fleming (1881-1955) trẻ hơn Churchill (1874-1965) 7 tuổi. Không có chứng liệu nào cho thấy Churchill suýt chết đuối ở Tô Cách Lan ở lứa tuổi thanh thiếu niên hay bất cứ tuổi nào khác. Và cũng không hề có chứng liệu nào nói về Đức Ông Randolph Churchill nuôi Alexander Fleming ăn học thành bác sĩ cả. Sir Martin Gilbert, nhà nghiên cứu tiểu sử Churchill, cũng nhấn mạnh rằng suốt toàn bộ nhật ký của Moran không hề đề cập đến penicillin hay vụ cho phi cơ chở pinicillin sang Cận Đông cho Churchill.
Alexander Fleming sinh ra trong một gia đình có 8 người con ở một vùng quê xa xôi của Tô Cách Lan. Năm14 tuổi, ông đã rời quê nhà để lên Luân Đôn học nhờ có một người anh vừa tốt nghiệp trường y và đang hành nghề bác sĩ ở đấy. Tốt nghiệp ngành kinh doanh, ông đi làm cho hãng vận chuyển hàng hải một thời gian, đăng lính năm 1900, năm sau quay lại học y khoa, tốt nghiệp năm1906, phục vụ ngành quân y trên chiến trường nước Pháp trong thời gian Đệ Nhất Thế Chiến. Năm 1918, chiến tranh kết thúc, ông trở về trường cũ St. Mary’s Hospital nghiên cứu và giảng dạy. Ngày 28 tháng Chín 1928, ông tìm ra penicillin.
Trở lại với câu chuyện Thằng Rái Cá nêu ở phần đầu của bài viết nầy, chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao một câu chuyện đã được thi vị hóa và huyền thoại hóa từ 60 năm trước để dạy cho trẻ con về sức mạnh của lòng tử tế, đã đượctái chế biến, thêm mắm dậm muối và đưa lên xa lộ thông tin Anh ngữ từ mười năm trước, bây giờ nó lại lan truyền trên nhiều trang mạng Việt Ngữ? Có lẽ chúng ta nên có thái độ tích cực, xem đó như là một thông điệp mạnh mẽ đánh động lương tri vì lòng tử tế dường như ngày càng trở nên hiếm hoi. Và giới đọc giả chúng ta ước mong các trang mạng Việt ngữ có nhiều khả năng và phương tiện hơn để làm việc một cách cẩn thận và nghiêm túc hơn trong việc kiểm định giá trị bài vở và đưa tin chính xác.
            Phan Hạnh, Toronto. (http://phanhanh.wordpress.com/page/2/)



Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

BÀI THUỐC CỰC ĐƠN GIẢN CHỮA KHỎI HẲN BỆNH MẤT NGỦ KINH NIÊN



Mất ngủ không những làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt hàng ngày mà còn gây tổn hại đến sức khỏe không nhỏ.
    Ngày nay, không những người có tuổi mà những người trẻ cũng hay mắc chứng bệnh mất ngủ. Mất ngủ không những làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt hàng ngày mà còn gây tổn hại đến sức khỏe không nhỏ. Hơn nữa, việc điều trị mất ngủ lại không hề đơn giản, nhiều người uống đủ thuốc Đông - Tây y mà vẫn không ngủ được.
   Chúng tôi xin giới thiệu một bài thuốc rất đơn giản, dễ làm nhưng đem lại hiệu quả không ngờ trong việc chữa trị chứng bệnh mất ngủ. Nếu có điều kiện, người bệnh nên áp dụng thêm một số biện pháp phụ trợ như ngồi thiền, ngâm chân trước khi đi ngủ, chắc chắn sẽ đem lại cho quý vị những giấc ngủ ngon.
1. Bài thuốc chữa mất ngủ từ củ gừng
- Gừng tươi: 1 củ to hay nhỏ tùy vào mức độ ăn cay của từng người.
- Đường phên: Lượng vừa đủ cho lượng nước 500ml.
Cách nấu: Cho gừng vào nước lạnh (khoảng 600ml, cho 1 lần uống) đun sôi, sau khi nước sôi cho đường vào, tiếp tục đun nhỏ lửa khoảng 15 phút là được.
Thời gian uống: Uống vào buổi trưa hoặc buổi chiều để có tác dụng vào lúc đi ngủ.
Lưu ý:
  Ngày nào uống thì chế biến ngày ấy cho tươi mới là tốt nhất. Không cứ người mất ngủ mới uống được, người bình thường muốn ngủ ngon đều có thể uống.
Thời gian đầu khi mất ngủ trầm trọng, có thể uống khoảng 1 lít nước đường gừng. Sau 1 thời gian khi bệnh đã chuyển, có thể giảm xuống uống 500ml rồi dần dần duy trì cách ngày uống 1 lần 500ml.
2. Những biện pháp bổ trợ cho bài thuốc chữa mất ngủ
- Ngày ngồi thiền khoảng 1h.
- Trước khi đi ngủ ngâm chân bằng nước gừng nóng, hoặc nước muối nóng.



Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

TÓM TẮT ĐẠO PHẬT



Hỏi: Phật Giáo là gì?
Đáp: Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh". Phật Giáo phát nguồn từ hơn 2,500 năm trước, khi Ngài Siddhattha Gotama (Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm), hay Đức Phật, tự mình giác ngộ vào lúc 35 tuổi.
Hỏi: Có phải Phật Giáo chỉ thuần là một tôn giáo?
Đáp: Đối với nhiều người, Phật Giáo không phải chỉ  một tôn giáo mà còn có thể xem như  một triết học, hay đúng hơn, đó  "một lối sống". Gọi Phật Giáo là một triết học, vì danh từ "triết học - philosophy" có nghĩa là "sự yêu chuộng trí tuệ", và con đường của đạo Phật có thể tóm tắt như sau:
(1) sống có đạo đức,
(2) nhận thức rõ ràng về mọi ý nghĩ  hành động, và
(3) phát triển sự hiểu biết và trí tuệ.
Hỏi: Phật Giáo giúp tôi bằng cách nào?
Đáp: Phật Giáo giải thích mục đích của đời sống, giải thích hiện tượng bất công và bất bình đẳng trên thế gian, và cung ứng một phương cách thực hành hay một lối sống để đưa đến hạnh phúc thật sự.
Hỏi: Tại sao Phật Giáo trở nên phổ biến?
Đáp: Phật Giáo ngày càng phổ biến  các nước Tây phương vì nhiều lý do. Thứ nhất là  Phật Giáo có những giải đáp cho nhiều vấn đề trong các xã hội vật chất hiện đại. Tiếp đến, cho những ai có chú tâm, Phật Giáo cung ứng một sự thông hiểu sâu sắc về tâm trí con người và các cách trị liệu tự nhiên, mà các nhà tâm lý nổi tiếng trên thế giới đều công nhận là rất cao cấp và rất hiệu quả.
Hỏi: Đức Phật là ai?
Đáp: Ngài Siddhattha Gotama sinh ra vào năm 563 trước Tây Lịch, trong một hoàng tộc tại Lumbini, nay thuộc xứ Nepal. Vào năm 29 tuổi, Ngài nhận thức rằng tiện nghi vật chất và an ninh trong thế gian không bảo đảm hạnh phúc; vì thế, Ngài đi tìm học các lời dạy, tôn giáo và triết học thời đó, để tìm kiếm chìa khóa đưa đến hạnh phúc. Sau sáu năm học tập và hành thiền, Ngài tìm ra con đường "Trung Đạo" và giác ngộ. Sau khi chứng đắc, Ngài dùng quảng đời còn lại tại thế gian để truyền giảng các nguyên lý trong đạo Phật -- gọi là Pháp, hay Chân lý, cho đến khi Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi.
Hỏi: Có phải Đức Phật là Thượng Đế?
Đáp: Không, Ngài không là Thượng Đế, và Ngài cũng không tuyên bố như thế. Ngài là người giảng dạy con đường đưa đến giác ngộ, từ kinh nghiệm thực chứng của Ngài.
Hỏi: Phật tử  tôn thờ các thần tượng không?
Đáp: Những người Phật tử tỏ lòng tôn kính các hình ảnh của Đức Phật, nhưng không tôn thờ, cũng không van xin những điều lợi lạc. Một pho tượng Phật ngồi trong tư thế với hai tay dịu dàng đặt trên vế, với nụ cười từ bi, nhắc nhở chúng ta nỗ lực phát triển tình thương và an định nội tâm. Lễ lạy tượng Phật là để tỏ lòng biết ơn về các lời dạy của Ngài.
Hỏi: Tại sao nhiều quốc gia Phật Giáo lại nghèo như vậy?
Đáp: Không hẳn đúng như vậy. Nhật Bản là một quốc gia có truyền thống Phật Giáo sâu đậm và ngày nay cũng là một quốc gia có kinh tế giàu mạnh. Thái Lan, với Phật giáo là quốc giáo, cũng có một nền kinh tế tương đối vững mạnh và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng một trong các điều dạy của Phật Giáo là tài sản của cải không bảo đảm được hạnh phúc, và tài sản của cải cũng không bao giờ thường còn. Dân chúng trong bất kỳ quốc gia nào cũng chịu đau khổ, cho dù họ giàu sang hay nghèo nàn. Chỉ những người nào thông hiểu các lời dạy trong Phật Giáo thì mới có thể tìm được hạnh phúc thật sự.
Hỏi: Có phải có nhiều tông phái Phật Giáo không?
Đáp: Có nhiều tông phái trong Phật Giáo là   những khác biệt về văn hóa và truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, căn bản của Phật Giáo vẫn không thay đổi, đó  Pháp hay Chân lý.
Hỏi: Có phải các tôn giáo khác đều sai lầm?
Đáp: Phật Giáo là một hệ thống tín ngưỡng có tính bao dung đối với các tín ngưỡng hay tôn giáo khác. Phật Giáo chấp nhận các lời giảng đạo đức của các tôn giáo khác, nhưng Phật Giáo còn tiến xa hơn, bằng cách cung ứng một mục tiêu dài hạn trong sự hiện hữu của chúng ta, qua trí tuệ  sự hiểu biết thật sự. Phật Giáo chân chính thì rất bao dung, và không quan tâm chi đến các nhãn hiệu như  "tín hữu Ky-tô giáo", "tín hữu Hồi giáo", "tín hữu Ấn-độ giáo", hay "Phật tử". Vì vậy, trong lịch sử, không bao giờ  các cuộc thánh chiến mang danh Phật Giáo. Cũng vì thế  những người Phật tử không đi truyền giảng hay cải đạo người khác; họ chỉ giảng giải nếu được ai hỏi đến.
Hỏi: Phật Giáo có tính khoa học không?
Đáp: Khoa học là tri thức được kết hợp thành hệ thống, qua các dữ kiện được quan sát và thực nghiệm và đề ra các định luật tổng quát của thiên nhiên. Cốt lõi của Phật Giáo phù hợp với định nghĩa đó, bởi vì Tứ Diệu Đế hay Bốn Sự Thật Thâm Diệu, có thể được thử nghiệm và minh chứng bởi bất kỳ người nào, và ngay chính Đức Phật cũng đã từng nói với các đệ tử rằng họ phải thực chứng các lời dạy của Ngài, mà không nên chỉ tin suông. Phật Giáo dựa nhiều trên trí tuệ, hơn là lòng tin.
Hỏi: Đức Phật đã dạy những gì?
Đáp: Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều đề tài, nhưng các điều căn bản trong Phật Giáo có thể tóm tắt trong Tứ Diệu Đế  Bát Chánh Đạo.
Hỏi: Diệu đế thứ nhất là gì?
Đáp: Khổ Đế, chân lý thâm diệu đầu tiên, nói rằng đời sống là đau khổ, nghĩa là phải chịu đau đớn thể xác, già nua, bệnh hoạn, rồi chết. Ta cũng phải chịu đau khổ về mặt tâm lý như  đơn, phiền giận, bực bội, sợ hãi, bối rối, thất vọng, sân hận. Đây là một sự kiện hiển nhiên, không thể chối cãi. Đây là thực tế khách quan, không phải bi quan; vì bi quan là mong đợi những điều gì trở nên tệ hại. Mặt khác, Phật Giáo giải thích cách thức giải quyết các đau khổ đó  cách thức để  hạnh phúc thật sự.
Hỏi: Diệu đế thứ nhì  gì?
Đáp: Tập Đế, chân lý thâm diệu thứ nhì, dạy rằng tất cả mọi đau khổ đều do ái dục và tham thủ. Ta sẽ bị phiền khổ nếu ta mong đợi người khác phải tuân theo ý muốn của mình, phải làm giống như mình, nếu ta không được những gì mình muốn, v.v. Ngay cả khi ta muốn và được, điều này cũng không bảo đảm có hạnh phúc. Tâm khát khao ham muốn cướp đoạt của ta niềm vui được thỏa lòng và hạnh phúc. Thay vì kiên trì chiến đấu để thành đạt điều mong muốn, hãy cố gắng sửa đổi chính cái lòng ước muốn của mình.
Hỏi: Diệu đế thứ ba là gì?
Đáp: Diệt Đế, chân lý thâm diệu thứ ba, là  thể chấm dứt đau khổ  đạt được trạng thái thỏa lòng và hạnh phúc. Khi ta dứt bỏ ái dục, vốn là  ích, và tập sống từng ngày, chúng ta bắt đầu sống an vui và tự do. Chúng ta sẽ  nhiều thì giờ  năng lực để giúp đỡ người khác. Trạng thái ấy được gọi là Niết Bàn.
Hỏi: Diệu đế thứ   gì?
Đáp: Đạo Đế, chân lý thâm diệu thứ tư, là con đường đưa đến chấm dứt đau khổ. Con đường này gọi là Bát Chánh Ðạo.
Hỏi: Bát Chánh Đạo là gì?
Đáp: Đó  con đường gồm 8 yếu tố chân chánh: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định. Đây là con đường của đạo đức và tỉnh thức -- qua lời nói, ý nghĩ  hành động, và phát triển trí tuệ bằng sự nhận thức rõ ràng về Tứ Diệu Đế  bằng sự tăng trưởng lòng từ bi.
Hỏi: Ngũ giới là gì?
Đáp: Đây là năm điều giới luật đạo đức của Phật Giáo. Đó là: không sát hại, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, và không dùng các chất say làm lu mờ trí óc.
Hỏi: Nghiệp là gì?
Đáp: Nghiệp hay "nghiệp-quả" là một định luật cho biết rằng mỗi một nguyên nhân đều tạo ra một hậu quả, có nghĩa là các hành động của ta đều có những hậu quả. Định luật đơn giản này đã giải thích nhiều vấn đề: sự bất công trên thế gian, tại sao có người sinh ra lại có phế tật, có người lại có nhiều tài năng, có người có đời sống rất ngắn ngủi. Nghiệp cho thấy tầm quan trọng về việc tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm về các hành động của chính mình, trong quá khứ  hiện tại. Làm thế nào để thử nghiệm tác động nghiệp quả của các hành động của ta? Câu trả lời được tóm tắt bằng cách hãy nhìn xem 3 điểm chính: (1) ý định đằng sau của mỗi hành động, (2) hậu quả của hành động đó vào chính mình, và (3) hậu quả của hành động đó vào những người khác.
Hỏi: Trí tuệ  gì?
Đáp: Trong Phật Giáo, Trí tuệ phải được phát triển cùng với Từ bi. Trong một cực đoan, bạn có thể  một người tốt bụng nhưng khờ dại, và trong một cực đoan khác, bạn có thể  nhiều kiến thức nhưng lại không có tình cảm. Phật Giáo dạy ta nên giữ thật sự cân bằng và trọn vẹn cả hai, phải trau giồi cả trí tuệ lẫn và từ bi. Trí tuệ cao nhất là thấy rõ ràng rằng trên thực tế, mọi hiện tượng đều không hoàn toàn, không thường còn, và không có một thực thể cố định. Trí tuệ thật sự không phải chỉ  tin vào những gì được dạy, mà phải chứng nghiệm và thông hiểu chân lý  thực tế. Trí tuệ đòi hỏi phải có một tâm ý rộng mở, khách quan, không cố chấp. Con đường của Phật Giáo đòi hỏi phải can đảm, nhẫn nhục, mềm dẻo và thông minh.
Hỏi: Từ bi là gì?
Đáp: Từ bi bao gồm các phẩm hạnh của lòng san sẻ, sẵn sàng an ủi người khác, thiện cảm, chăm lo và ưu tư. Trong Phật Giáo, ta chỉ thật sự cảm thông người khác khi nào ta thật sự cảm thông chính mình, qua trí tuệ.
Hỏi: Tôi phải làm thế nào để trở thành một Phật tử?
Đáp: Bất cứ ai cũng có thể tìm hiểu và thực nghiệm các lời dạy của Đức Phật. Ngài dạy rằng lời giải đáp cho mọi vấn đề của chúng ta là  bên trong chúng ta, không phải  bên ngoài. Ngài nói với các đệ tử không được tin ngay vào lời dạy của Ngài, mà họ phải tự thử nghiệm các lời dạy đó. Như thế, mỗi người tự  quyết định và tự chịu trách nhiệm về các hành động và sự hiểu biết của mình. Điều này cho thấy Phật Giáo không phải là một tập hợp cố định các tín điều cần phải được chấp nhận trọn vẹn. Đây là những lời dạy để mỗi người tự tìm hiểu, học tập và áp dụng theo tình huống riêng của mình.
    Lược dịch từ bài "Basic Buddhism: A Five-Minute Introduction" (Căn bản Phật giáo: Giới thiệu trong năm phút), trong quyển "Good Question, Good Answer" (Khéo Vấn, Khéo Đáp) của Bhikkhu Dhammika, ấn bản Internet (http://www.buddhanet.net/).

                                                                       Bình Anson lược dịch,

                                             (Trích email của Thầy nguyenbao036@....)





Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014

SAI LẦM CHẾT NGƯỜI NHƯNG RẤT PHỔ BIẾN KHI UỐNG SỮA ĐẬU NÀNH

   
Sữa đậu nành là dưỡng chất vô cùng tốt cho sức khỏe nhưng nếu uống không đúng cách sẽ gây hại cho cơ thể vô cùng.
  Sữa đậu nành là sản phẩm chế biến từ đậu tương, là một loại thực phẩm thiên nhiên có giá trị dinh dưỡng cao, mùi vị thơm ngon, dễ uống, dễ hấp thu. Ngoài tác dụng thanh phế, tiêu đờm, nó còn có tác dụng làm giảm mỡ máu, giảm huyết áp đối với những người có huyết áp cao.
Sữa đậu nành là một thức uống rất bổ dưỡng và lành mạnh cho cơ thể con người.    Ngoài khả năng cung cấp can-xi phòng ngừa loãng xương, sữa nói chung còn có tác dụng tăng cường sức đề kháng, ngăn ngừa các bệnh về dạ dày và đường ruột. 
  Riêng sữa đậu nành có tác dụng làm giảm cholesterol cũng như dị ứng. Thành phần chính trong sữa đậu nành là Protein có hàm lượng rất cao khiến cho loại thực phẩm này trở thành một nguồn thực phẩm quan trọng trong cuộc sống.
   Tuy nhiên, nếu uống sữa không đúng cách, chẳng những bạn không hấp thu được các dưỡng chất trong sữa mà còn có hại cho sức khỏe. Vậy phải uống sữa như thế nào mới đúng? Cần tránh gì? Một vài lời khuyên sau đây sẽ giúp bạn.
   Uống cùng thuốc kháng sinh
  Một số loại thuốc đặc biệt như thuốc kháng sinh chứa chất tetracycline, erythromycine có tác dụng phân hủy chất dinh dưỡng trong sữa đậu nành. Do đó, tránh uống kháng sinh cùng lúc với sữa đậu nành. Nên uống cách nhau khoảng 1 giờ để đảm bảo không có phản ứng hóa học xảy ra.
  Uống khi bụng rỗng
  Uống sữa đậu nành khi bụng đói sẽ khiến protein trong sữa đậu nành đều biến thành nhiệt lượng và tiêu hao mất. Do đó không thể mang lại tác dụng bồi bổ cho cơ thể. Khi uống sữa đậu, tốt nhất nên ăn cùng các chất tinh bột như bánh bao, bánh mỳ…để giúp cho các dưỡng chất được hấp thụ tối ưu.
  Không nên cho thêm đường đỏ khi uống sữa đậu nành
 Trong đường đỏ có chứa nhiều các axit hữu cơ như axit lactic, axit acetic…có tác dụng kết hợp các chất protit, canxi tạo thành các hợp chất biến tính làm mất đi các chất dinh dưỡng của sữa đậu nành, đồng thời ảnh hưởng tới sự hấp thu và tiêu hóa của cơ thể.
  Không nên chỉ uống sữa đậu nành không
  Nếu chỉ uống sữa đậu nành không thì các chất dinh dưỡng trong đậu nành khi vào cơ thể đều bị chuyển hóa thành nhiệt lượng mà tiêu thụ mất do đó không còn tác dụng bổ nữa. 
  Vì vậy, khi uống sữa đậu nành nên ăn thêm một chút điểm tâm như: bánh ngọt, bánh mì, bánh bao…hay các sản phẩm chế phẩm của tinh bột. Tinh bột có tác dụng làm cho dịch vị được tiết ra khiến các chất dinh dưỡng trong sữa đậu nành được tiêu hóa, hấp thu hoàn toàn.
  Không nên đựng sữa đậu nành trong bình giữ nhiệt
  Không nên cho sữa đậu nành vào các loại bình, phích giữ nhiệt vì vi khuẩn rất dễ phát triển trong sữa đậu nành ở nhiệt độ ấm. Ngoài ra, sau 3 đến 4 giờ, sữa đậu nành sẽ bị biến chất và không thể sử dụng được nữa, nó ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa của cơ thể.
  Uống sữa đậu nành với trứng
  Theo thói quen, nhiều người thích cho trứng vào sữa đậu nành, và nghĩ rằng nó có nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên, một thói quen như vậy là không khoa học. Bởi vì trong sữa đậu nành có một chất đặc biệt gọi là trypsin, khi kết hợp với protein trong lòng trắng trứng sẽ dẫn đến làm giảm giá trị dinh dưỡng.
  Uống quá nhiều
  Uống sữa đậu nành quá nhiều dễ gây ra khó tiêu, đầy hơi, tiêu chảy do các chất dinh dưỡng trong sữa đậu nành không đựợc hấp thu hết, ảnh hưởng không tốt đến tiêu hóa. Đối với người lớn, không nên uống quá 500ml/ngày.

                                                                                      Theo Khoe & Đep