Thế nào là "pháp nhẫn ba la mật"?
Đó là phương pháp nhẫn nhịn, kham nhẫn, chịu
đựng mọi chuyện trên đời, mọi cơn sóng gió của thế gian. Đó là phương pháp
"nhẫn nhịn mà không thấy nhục nhã" như người đời thường nghĩ. Bởi vì,
nếu nhẫn nhịn mà còn thấy là nhục nhã, thì chúng ta chỉ có thể nén giận để
nhịn, chắc là không lâu, không quá ba lần.
Chúng ta nên nhận định một cách sáng suốt rằng
những lời thị phi "không có nghĩa" gì cả, cho nên chúng ta
"không cần chấp" làm gì. Chúng ta không chấp vào những lời nói, phê
bình, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, vu khống, vu cáo, thay trắng đổi đen, lộng
giả thành chơn, thì chắc chắn chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm
được.
Thí dụ như khi người ta đưa lửa tới đốt, chúng ta đưa bổi ra đón, lửa có điều kiện cháy lớn hơn. Nếu chúng ta không đón ngọn lửa do người ta đem tới, thì ngọn lửa đó
chỉ đốt hư không mà thôi, hư không không có gì để đốt cháy được, lúc nào đó lửa
cũng sẽ tắt queo, không gây thiệt hại gì! Cũng vậy, khi bị người khác công
kích, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, chúng ta không chấp vào đó, coi chuyện đó là
những chuyện "đương nhiên phải có" ở thế gian đầy tranh chấp, ganh
tị, đố kỵ, chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh
Pháp Hoa, Đức Phật dạy: đó là "thập như
thị", tức là mười thứ như thị, gồm có: như thị
tánh, như thị tướng, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như
thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh.
Nghĩa là: do tâm tánh của con người như vậy
cho nên hình tướng của con người là như vậy; do bản thể của con người như vậy
cho nên nghiệp lực của con người là như vậy; do tạo tác của con người như vậy
gây ra nghiệp nhơn như vậy cộng thêm nghiệp duyên như vậy cho nên nghiệp quả
của con người là như vậy; vì nghiệp báo của con người như vậy cho nên từ xưa
đến giờ cứu cánh của con người cũng là như vậy.
Hiểu được mười điều đương nhiên như thị, như
thế, như vậy, tức là chúng ta đã thấy tột chơn tướng của mọi pháp trên thế gian
này. Được như vậy, được như thế, được như thị, chúng ta sẽ sống đời an lạc và
hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã giác ngộ và giải thoát. Nhưng làm thế nào thực hành được pháp nhẫn ba
la mật?
Câu trả lời đó là: "Người muốn thực hành được pháp
nhẫn ba la mật, phải đạt được trạng thái vô ngã".
Trước hết, người đạt được "trạng thái vô
ngã" là người không còn chấp "cái ta" tầm thường, như mọi người
trên thế gian này thường chấp.
Người đời thường chấp, thường cho rằng, tấm thân tứ đại mấy chục ký lô chính là
"mình", chính là "ta".
Khi được hỏi mình là ai, người đời thường chỉ ngay ngực, hay chỉ vào tấm thân
tứ đại nặng nề và trả lời: Ta đây nè! Cho nên, hể ai đụng đến "ta",
thì phải phản ứng ngay, phải đối phó ngay, nhịn không nổi, nín không
được.
Trái lại, người đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng:
tấm thân, do đất nước gió lửa hợp thành này, không phải là "ta" thực
sự.
Đó chỉ là cái trạm dừng tạm thời của kiếp này,
trong vô số kiếp, của "ta" mà thôi.
Đến khi mãn kiếp này đời này, "ta"
sẽ bỏ lại cái tấm thân đó mà ra đi, tìm cái thân xác khác, trong sáu nẻo luân
hồi.
Nếu không khéo, do lòng tham lam lâu đời dẫn dắt,
"ta" lại chọn nhằm cái thân con heo,
hoặc do lòng sân hận lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con
rắn mãng xà,
hay do lòng si mê lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân con
bò,
thì khốn khổ biết là bao nhiêu.
Sở dĩ gọi đó là "tấm thân tứ đại",
do "đất nước gió lửa" hợp thành, bởi vì nếu không có những chất từ
đất ra như thức ăn, những chất từ nước như thức uống, những chất từ gió như
dưỡng khí, những chất từ lửa như hơi ấm, bồi bổ liên tục mỗi giây, mỗi phút, mỗi
giờ, mỗi ngày, thì chúng ta đã vong mạng từ lâu rồi vậy.
Đó chỉ là "tấm thân tứ đại", không phải thực là "ta"
vậy.
Thứ đến, người đạt được "trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng:
tâm trạng của mình luôn luôn thay đổi trong từng sát na, trong từng giây phút.
Những tâm niệm, những suy tư, nghĩ tưởng trong giây phút trước đây, bây giờ đã
khác đi hay không còn nữa. Tâm tánh của mình
có khi hiền thiện như thánh nhơn, cũng lắm khi độc hại còn hơn ác quỉ. Mình chỉ thấy mọi người khác gian ác, mọi người khác nguy hiểm,
mọi người khác sai lầm, đáng bị trừng phạt, đáng bị bỏ tù, đáng bị xử tử, để
cho xã hội này, cho thế gian này, trong đó có mình, được sống bình yên, được
hưởng sung sướng! Con người thường thấy là mình đúng, khi đòi hỏi phải trừng
phạt thật nặng, đòi hỏi phải bỏ tù rục xương, đày đọa địa ngục, xô xuống hỏa
ngục, những người khác phạm tội ác.
Con người thường suy nghĩ, sáng chế, yêu cầu
thi hành những hình phạt ghê rợn nhất để trừng phạt, trừng trị đích đáng những
phạm nhân đã sát hại thân nhân mình và nghĩ rằng người quá cố sẽ vui lòng nơi
suối vàng. Thực ra, đó là tâm trạng của chính mình muốn như vậy mà thôi. Người
đã chết có nói gì đâu, có yêu cầu gì đâu, có đòi hỏi gì đâu? Bởi vậy có câu: "Suy bụng ta ra bụng người... chết! ".
Mấy ai nghĩ được rằng: nếu làm như vậy, cả hai
gia đình phạm nhân và nạn nhân cũng đều thiệt hại một nhân mạng, đều cùng đau
khổ như nhau. Thỉnh thoảng báo chí cũng có đăng các tin rất cảm động, gia đình
nạn nhân xin giảm tội, xin xử nhẹ tội, hay xin tha tội cho phạm nhân.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Con người thường nhân danh công lý, nhân danh
tôn giáo, nhân danh lẽ phải, nhân danh thượng đế, nhân danh đủ các thứ có
thể nhân danh được, để kết án, kết tội, trừng trị tất cả mọi người khác.
Còn nếu mình phạm tội thì đáng được tha thứ, phải được tha thứ, người khác thì
không đáng được!
Cái chỗ bất công này là nguyên nhân chính, đưa tới xáo trộn, biến loạn trong xã
hội là như vậy.
Cuối cùng, người đạt được "trạng thái vô
ngã" chính là người không còn chấp "cái ta" tầm thường như mọi
người trên thế gian này thường chấp.
Người đạt được"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng rằng:
"ta" không phải là cái thân tứ đại nặng nề, và cũng không phải
là cái tâm suy nghĩ lăng xăng lộn xộn thường ngày, bởi vì những thứ đó bị
vô thường chi phối, nay còn mai mất, chợt hiện chợt biến, không tồn tại vĩnh
viễn.
Như vậy, "cái gì" tồn tại vĩnh viễn,
không bị vô thường chi phối, "cái gì" bất cấu, bất tịnh, bất tăng,
bất giảm, theo như Đức Phật chỉ dạy trong Bát Nhã Tâm Kinh?
Đó chính là "cái ta chơn thật", đó chính là "con người chơn
thật" của tất cả chúng ta.
Mục đích cứu kính rốt ráo tột cùng của Đạo Phật chính là nhằm khai mở, chỉ bày
"con người chơn thật" đó cho mọi người biết được, hiểu được, ngộ
được, nhập được, sống được. Người nào được như vậy tức là được giác ngộ và
giải thoát, được an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Trong kinh sách, Đức Phật có dạy: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".Nghĩa là trên trời dưới đất chỉ có "cái ta chơn thật" là điều
độc nhứt đáng tôn trọng, đáng trân quí mà thôi.
Cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật có dạy:
Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu
khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.
Nghĩa là:
Nếu chúng ta ngộ được, nhập được, sống được bằng "con người chơn
thật" không tướng mạo, nên không dơ, không sạch, không tăng, không
giảm, không kẹt nhị biên, thể nhập bất nhị pháp môn, thì tâm chúng ta
không bị bất cứ cái gì có thể khủng bố, nên không còn sợ hãi,
do không còn sợ hãi nên không có gì có thể khiến cho mình kinh khiếp hoảng
sợ, chúng ta xa lìa được tất cả các chuyện điên đảo đảo điên, các chuyện
mộng mơ mơ tưởng, các chuyện không thực ở thế gian,
cuối cùng đạt được cảnh giới niết bàn vô sanh, không còn phiền não khổ
đau, không còn sinh tử luân hồi.
Đó mới chính thực là mục đích cứu kính của
người theo đạo Phật bằng trí tuệ bát nhã.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng:
Người nào ôm ấp tâm niệm nó mắng tôi, nó chửi tôi, thì không phải là người trí,
chỉ chuốc khổ vào thân thôi.
Người nào không ôm ấp những tâm niệm như vậy, thì người đó dẹp được lòng sân hận.
Nghĩa là chúng ta đã thấy rõ như trên, bất cứ ai dù bị mắng chửi, bị mạ lỵ
hay không bị mắng chửi, không bị mạ lỵ, mà cứ ôm ấp tâm niệm đó trong
lòng, thì chỉ chuốc lấy phiền não và khổ đau cho chính mình, có khi còn
đem lại bất an cho gia đình, cho những người chung quanh nữa mà thôi.
Trong suốt những năm dài thuyết pháp độ
sanh, Đức Phật luôn luôn khuyến khích mọi người nên thực hành hạnh nhẫn
nại, nhẫn nhịn đến mức rốt ráo, cao tột, trong kinh điển gọi là "pháp nhẫn ba la mật". Đức Phật luôn luôn hành pháp nhẫn nại, dù lắm khi Ngài cũng bị chỉ
trích, bị chửi mắng, thậm chí bị tấn công. Nhẫn nại không bao giờ là dấu
hiệu của sự yếu đuối, ươn hèn, kém cỏi, chủ bại, đầu hàng, nhục nhã.
Trái lại, nhẫn nại là sức mạnh bất khuất, sức mạnh vạn năng, sức mạnh vô song
của người tự chủ, của người đã ngộ được và sống được với "cái ta chơn
thật", cho nên không còn sợ bị chúng khinh khi, không còn sợ chúng
"được đằng chân lân đằng đầu", không còn sợ chúng "được
nước làm tới".
Tại sao vậy?
Bởi vì "cái ta chơn thật" không
phải là tấm thân tứ đại, không có tướng mạo, cho nên không ai có thể xâm phạm được.
Điều nên sợ, đáng sợ chính là mình không thể kham nhẫn được,
không thể chịu đựng nỗi, không thể tự thắng mình, không thể tự chủ được bản
thân và bản tâm mình trước những thử thách, trước những sóng gió của cuộc
đời mà thôi.
Tác giả : Gyalwang Drukpa XII
(Trích Email của Thầy nguyenbao036@....)