Trong kinh Phật dạy,
“cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc,
làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ; bị đoạ làm
súc sanh, quỷ đói, chưa chắc là khổ, mà cái khổ lớn nhất của con
người là vô minh, mê muội, không biết lối đi mới thật là khổ.
Những cái khổ thiếu ăn,
thiếu mặc, đói rét, hay con trâu, con bò kéo cày, hoặc làm quỷ đói,
cho đến khi trả hết nghiệp khổ thì cũng có ngày thoát ra khỏi; còn
chúng ta sống trong vô minh mê lầm mà không biết lối đi, không biết được
sự thật của cuộc đời mới là khổ.
Đã làm người, ai không
một lần vấp ngã, nhưng khi vấp ngã chúng ta có chịu đứng lên hay
không? Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất, thì cũng từ nơi đất mà đứng lên. Đạo
Phật không bắt buộc một ai phải đi theo mà chỉ hướng dẫn cho tất cả mọi
người thấy biết đúng sự thật, tốt biết tốt, xấu biết xấu, còn làm
được hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Chúng ta có quyền chọn
lựa vì chính mình là thượng đế tối cao của chính mình, không ai có
quyền chen vô hay ban phước, giáng họa cho ta. Đến chỗ này, chúng ta phải
thầm nhận, tự nhận, không nên chần chừ nữa, mà hãy một phen chuyển
mình để nhận ra tính biết sáng suốt ngay nơi thân này.
Phật dạy, ai cũng có
chân tâm sáng suốt, tại sao chúng ta không chịu thừa nhận để rồi mình cứ
mải mê chạy theo vui chơi, hưởng thụ dục tính, làm chính mình khổ luỵ
ngày càng thêm chồng chất?
Vua Trần Thái Tông là
một vị vua cư sĩ. Khi tu hành ngộ đạo, Ngài cảm thông cho kiếp người
sao quá ngu si, khờ dại, nên sáng tác ra bài thơ như sau:
Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi,
Ngày cách quê hương muôn dặm đường.
Phật dạy, “ai cũng có
tâm Phật, tâm sáng suốt, chỉ vì ta không chịu thừa nhận, nên phải chịu
trôi lăn mãi trong lục đạo, luân hồi”. Ta là nam nhi đại trượng phu, Phật
đã thoát ly sanh tử, còn ta dại gì mà đi lang thang mãi cho đến khi gối
mỏi, chân dùn mà ngồi đó than thân, trách phận, chờ đến khi khát nước
mới đào giếng thì làm sao hết khát được đây?
Vậy thành Phật là
thành cái gì? Chúng ta phải nhận rõ chỗ này, thành Phật là thành
cái tâm sáng suốt, thanh tịnh, chớ không phải thành cái thân năm,bảy
chục ký lô này. Cái tâm sáng suốt, thanh tịnh ấy ngay nơi mắt thì thấy
biết rõ ràng, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.
Có một ông vua hỏi
Thiền sư, “thành Phật là thành cái gì?”
Thiền sư đáp, “dám bảo
bệ hạ đã quên”.
Chỉ một câu nói “dám
bảo bệ hạ đã quên” đã làm nhà vua sáng tỏ, hài lòng. Do không nhận
cái mình thực có, nên chúng ta đành cam chịu sống trong đau khổ, lầm
mê.
Đạo Phật ra đời đã
mở ra trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại,
chưa từng có từ trước tới nay. Đạo phật đã chỉ cho chúng ta biết cách làm
chủ bản thân, nhờ biết quay lại chính mình; mình làm lành được hưởng phước, mình
làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa cho ta; nên đạo
Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, là đạo của sự giác ngộ,
giải thoát, là đạo của con người, vì con người, vì lợi ích của nhau, bằng
trái tim hiểu biết trên tình thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.
Phật là danh từ
chung, không dành cho riêng ai như các quan niệm khác của thời xa xưa. Ai cũng
có thể thành Phật được, nếu quyết tâm chịu bắt chước buông xả và tu
tập như Ngài, thì chúng ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai.
Sở dĩ, chúng ta không
thành Phật và phải chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử là vì mình không thừa
nhận nhận mình có tính biết sáng suốt. Chỉ vì mình chẳng chịu thừa nhận
chính mình có hạt châu vô giá ngay nơi thân này, mắt thấy sắc nhưng rõ
ràng thường biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế, tại ta không chịu lấy
ra xài mà thôi.
Điều đầu tiên đức Phật
đã chỉ là biết khổ do chấp trước sai lầm, chấp là gốc của sự khổ
đau; biết được khổ từ nguyên nhân chấp trước, bám víu, tham ái, nên
chúng ta phải tìm cách chuyển hoá, buông xả cái khổ lớn nhất của con
người là sợ chết, vì tham sống nên sợ chết.
Chúng ta luôn tham muốn
thân này luôn sống đời mãi mãi, nên mọi người coi cái chết là việc
cấm kỵ nhất. Do đó, khi gặp người thân thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau,
chúng ta đều luôn cầu chúc cho nhau mạnh khoẻ, sống lâu, mà ta không
biết phải gieo nhân nào để được sống thọ. Nhân sống thọ là không sát
sinh, hại vật, bởi mạng sống từ con người cho đến muôn loài vật, ai cũng đều
ham sống sợ chết, ta muốn sống thọ mà cứ giết hại hoài, thật “thất nhơn ác đức”
làm sao! Vì sợ chết nên ai cũng tìm cách tránh né danh từ chết, và
hình như từ chết đã ám ảnh con người thành nỗi sợ hãi lớn, thậm
chí đến khi tuổi già, bệnh gần chết, khi mua hòm về vẫn nói là hòm
thọ “tức là hòm sống.”
Cho nên, đã làm người
trong trời đất thì trước sau gì ai cũng phải chết, chỉ đến sớm hay muộn mà
thôi, dù là vua chúa hay người dân dã, bình thường. Do đó, với sanh
thì mau lớn trong từng giây, phút như một em bé khi mở mắt chào đời,
chỉ bằng cùm tay, ấy thế mà sẽ lớn lên với nhiều thay đổi; sanh
cũng có nghĩa là sự sống đang tăng trưởng, thay đổi và phát triển.
Còn đối với già thì
sao? Da nhăn, tóc bạc, mắt mờ, tai điếc, ăn uống, đi đứng khó khăn theo
từng năm tháng, ai rồi cũng sẽ phải già.
Với bệnh thì thân thể
tiều tụy, đau nhức hoành hành, làm ta đau khổ; sức khỏe dần hồi hao mòn, suy
kém, làm cho ta tốn tiền, hao của.
Khi chết thì con người
không còn cựa quậy, hoạt động như bình thường, mà nhắm mắt xuôi tay,
co cứng, rồi rã rời, thối rửa.
Vì lẽ ấy, đức Phật
mới nói với vua Ba Tư Nặc rằng, có bốn sự việc mà người thế gian
không thoát khỏi được, đó là sinh-già-bệnh-chết.
Chứng minh cho lời Phật
dạy là chân lý, đúng với lẽ thật thế gian là vô thường, chúng ta thường
đau khổ khi có người thân qua đời, nhất là người đó đã từng nuôi nấng,
thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho ta được đầy đủ về mọi phương diện. Ngày nay,
nếu chúng ta chịu khó theo dõi tin tức trên các phương tiện báo chí,
chúng ta sẽ thấy, không biết bao nhiêu là cảnh sinh ly tử biệt luôn
xảy ra hằng ngày, chết chóc do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, lũ lụt,
hạn hán, sóng thần, động đất, tai nạn, già bệnh v.v…
Nào là khi mới sanh ra,
chưa kêu tiếng khóc chào đời, hoặc mới chập chững biết đi đã xa lìa
cha mẹ, mới ngày nào mẹ mẹ, con con, mà giờ đây không còn nữa; rồi
tai nạn giao thông chết tức tưởi, làm con người trong phút chốc đã trở
thành người thiên cổ. Những nỗi đau thương, mất mát luôn rình rập
chúng ta trong từng giây, từng phút trên thế gian này. Hiện nay, tai
nạn giao thông đã làm cho biết bao người đang khoẻ mạnh bị chết tức
tửi, rồi bệnh tật tấn công, kẻ chết non, người chết bất đắc kỳ tử, cái
chết không tha thứ bất kỳ một ai, không phải chúng ta sinh ra chờ đến
già, bệnh mới chết.
Mọi người nên nhớ rằng,
cái chết đến với chúng ta rất bất ngờ, không báo trước, không chờ
đợi, không hẹn hò, không phải ai cũng đến già, bệnh rồi mới chết. Cái
chết đến với chúng ta thiên hình vạn trạng không sao kể hết, người
chết trẻ, kẻ chết già, người chết sông, kẻ chết suối, kẻ chết bụi,
người chết bờ… người chết vì súng đạn, gươm đao, kẻ chết vì thiên
tai, lũ lụt, người chết vì thiếu thốn, đói khát, lại có người vì
uất hận, vì bức xúc mà quyên sinh, bức tử. Tóm lại, cái chết không ai
có thể thoát khỏi và trốn được. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy
như sau:
Dầu trốn giữa hư không,
Ở biển khơi, núi rừng,
Không một nơi nào cả,
Trốn thoát được cái chết.
Thời đức Phật còn tại
thế, có bốn vị ngoại đạo tu chứng được ngũ thông:
_ Thứ nhất là thiên
nhãn thông, thấy được tất cả người và vật, dù có vật cản hay vật
không cản, đều thấy rõ ràng, thông suốt.
_ Thứ hai là thiên nhĩ
thông, nghe được tất cả âm thanh lớn, nhỏ dù gần, hay xa.
_ Thứ ba là tha tâm
thông, biết được tâm ý người đó đang suy nghĩ gì và muốn làm gì.
_ Thứ tư là thần túc
thông, biến hoá lớn nhỏ tuỳ ý, thăng thiên độn thổ, lên trời, xuống
đất, tuỳ ý biến hoá vô ngại.
_ Thứ năm là túc mạng
thông, nhớ được vô số kiếp về trước đang làm gì, ở đâu, và cuộc
sống ra sao đều nhớ rõ giống như người nhớ chuyện ngày hôm qua vậy.
Bốn vị ngoại đạo này
đều biết trước còn bảy ngày nữa là con quỷ vô thường đến đòi mạng,
nên hợp lại cùng nhau bàn cách trốn tránh và đến trình với vua Ba Tư
Nặc, qua bảy ngày sau sẽ trở lại thăm vua.
Vị thứ nhất dùng thần
thông bay lên núp trên đám mây xanh, người thứ hai dùng thần thông chui
sâu vào lòng núi, vị thứ ba dùng thần thông chui xuống biển sâu, vị
thứ tư dùng thần thông chui vào lòng đất. Thế là bốn vị yên trí
rằng, mình sẽ trốn được con quỷ vô thường và tin chắc là như vậy;
nhưng đến giờ thần chết đến, vị trốn vào hư không từ mây rớt xuống
nát thây, vị thứ hai bị đá đè bẹp dúm, vị thứ ba bị chết ngộp
dưới nước, khi nổi lên bị sóng xô vào bờ, vị thứ tư ở trong lòng
đất, bị đất sụp chôn vùi thân xác.
Đây là quy luật tất yếu
từ ngàn xưa cho đến nay, dù có tu luyện đến mức độ nào như bốn vị
ngoại đạo ấy, tuy chứng được ngũ thông, nhưng cũng không thể nào trốn
tránh được cái chết. Do đó, sự ra đời của đạo Phật đã giúp ích cho
nhân loại thấu suốt được nguyên lý vô thường, để mỗi người chúng ta
tự tỉnh thức, đừng lầm chấp cái gì cũng là thường còn mãi mãi, để
rồi gây thù, chuốt oán cho nhau, mà làm khổ đau cho nhân
loại.
Từ quan niệm sai lầm
đó, một số người cứ mãi đam mê, say đắm trong lạc thú trần gian, cố
chấp bảo rằng, cuộc sống này là trường tồn mãi mãi, cho nên mặc tình
gây tạo nhiều tội lỗi, đến khi phước hết, họa đến, ngồi đó mà than phân,
trách phận, đổ thừa tại-bị-thì-là. Cũng nhờ vô thường đổi thay, nên chúng
ta mới tu được; xưa là đồng hoang cỏ cháy, nay là mái chùa thân yêu
thắm đượm tình người.
Nhờ vô thường mà mọi sự
vật mới phát triển và đổi thay, nhờ vô thường mà chúng ta mới tu được;
nếu mọi thứ đều cố định như quan niệm của thời xa xưa: trời chết sanh
trời, người chết sanh người, thú vật chết sanh thú vật, thì chúng
ta tu hành đâu có lợi ích gì?
Tâm tham-sân-si của con
người cũng vô thường, nên chúng ta mới có thể thay đổi được; mình
có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ; không có một cái gì
trên đời này mà cố định cả, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là một dòng
chuyển biến liên tục, thay đổi đến không thể ngờ.
Một Thiền sư Việt Nam
sau khi ngộ đạo đã nói về thân này như sau:
Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn,
Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,
Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.
Đời người dài lắm
cũng đến trăm năm là cùng, như một giấc mộng dài, mới hôm nào ta còn
bé nhỏ vui đùa, chạy nhảy hồn nhiên, nay đầu tóc đã bạc phơ, lưng còng,
gối mỏi, chân dùn. Đời sống con người là như thế, mới qua thời tuổi trẻ
mà giờ đây đã thấy già nua.
Còn vạn vật thì
sao? Bốn mùa thay đổi, Xuân, Hạ, Thu, Đông, mới thấy cành hoa đẹp, giờ
đã tàn. Thật đúng với câu “phù dung sớm nở tối tàn”. Cuộc đời là
như vậy, luôn biến chuyển đổi thay, biết được như thế, chúng ta sẽ
không còn bất an, sợ hãi trước bao nỗi thăng trầm của kiếp nhân sinh.
Có thịnh ắt có suy, có
sinh ắt có tử, sống chết là lẽ đương nhiên, có gì phải lo, phải sợ,
bởi thấy được như vậy, nên các vị Thiền sư luôn tự tại trước nỗi sống
chết vô thường, “sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ.” Sống chết là
lẽ đương nhiên, là sự thường tình của thế gian, điều quan trọng là khi
sống, ta làm được việc gì đó thật sự có lợi ích thiết thực cho nhân
loại hay không.
Đây là điều thiết yếu
quan trọng mà người con Phật cần suy nghĩ cho thấu đáo về cuộc sống
của mình, ta luôn phải thăng hoa trên bước đường tu tập, mang lại niềm an
vui, hạnh phúc cho mình và người. Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về
sự vô thường của tâm.
Thích Đạt Ma Phổ Giác