Ðó là hai câu thơ của ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời
Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cái
hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.
Hai câu thơ đó có ý nói rằng nền giáo lý của Phật, tuy mênh mang như
biển cả, song có thể thu gọn trong hai chữ Tâm và Phật, hoặc Mê và Ngộ.
Hãy nói về cái Tâm.
Một lần, trên núi Linh Sơn, Ðức Thích Ca ngự trên tòa sen, sắp thuyết
pháp. Nhưng Ngài không nói gì cả, chỉ khoan thai đưa một cành hoa, rồi
lặng lẽ mỉm cười. Ðó là tịch niện hoa vi tiếu, độc đáo lối thuyết pháp
Phật giáo. Ý Ngài muốn nói như thế này: "Ta có một chân lý tối
thượng, đó là chân lý của cái Tâm, nhưng cái Tâm này nó lặng lẽ lắm, nó nhỏ
nhiệm, tịch mịch, vi diệu lắm. Ta không thể dùng lời lẽ thế gian mà diễn
tả nó được. Vì nếu ta chỉ động một niệm, chỉ nói một chữ, là Tâm đó đã
biến thế rồi. Vậy các người phải lặng lẽ, nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu
mà lãnh hội nó. Nhớ đấy! Nhớ đấy! ..." Nhưng các đệ tử đều
ngơ ngác không hiểu, riêng có ngài Ca Diếp là mỉm cười đáp lại mà thôi.
Do đó, Ngài đã truyền tâm ấn cho Ca Diếp, cùng y bát để làm đệ nhị tổ của Thiền
Tông. Trong giòng này, Ðức Ðạt ma là tổ thứ 28.
Một lần khác, Ðức Thích Ca xuất định, giảng về kinh Lăng Nghiêm.
Cũng là giảng về Tâm. Nhưng lần này, Ngài bảo ông A Nan đại khái như
sau: "Người nên thận trọng, chớ có vọng tưởng. Cái Tâm ấy
nó lạ và huyền nhiệm lắm vì nó là nguồn gốc của tất cả phép lạ đã tạo nên vũ
trụ này. Nó như cái gương trong đó, vũ trụ này hiện lên như một cảnh
huyễn, như một giấc chiêm bao, như tiếng vang, như mặt trăng dưới đáy nước, như
bóng chiếc nhạn in dưới hồ thu, như ảo ảnh nước mà kẻ lữ hành nhìn thâý trên sa
mạc, như những đóm đỏ vàng mà kẻ dặm mắt nhìn thấy ở hư không. Hãy thức
tỉnh! thức tỉnh! Cái tâm ấy hiển hiện dễ dàng lắm, nhưng nó khó nắm, khó
bắt lắm! Nó không ở trong thân người, nó không ở ngoài thân người, nó cũng
không ở khoảng giữa. Nó không ở chỗ nào hết, nhưng nó ở tất cả. Nó
trụ vào cái gì, thì cái đó trở nên có, nó buông cái đó ra thì nó trở nên
không. Nó là anh thợ vẽ, và chính nó vẽ vời nên cảnh thế gian này cùng
tâm giới. Nó động một niệm là nó nguệch một nét, nét đó biến thành thức,
thức đó động lại trên giòng tâm tư của chúng sinh để trở nên cảnh giới của vũ
trụ thế gian.... Nhưng nếu người tỉnh cơn mê, dẹp bỏ lục tặc là lục căn,
thì cái thức đó sẽ hồi đầu, rút khỏi các căn và trở về và ngươi sẽ nắm được cái
Tâm."
Sau này, Ðức Huệ Năng gọi Tâm đó là bản lai diện mục.
Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, Ðức Phật còn dạy: Cái Tâm ấy, bổn
tính nó vốn trong sáng. Vì thế, các ngươi mới có "cái
thấy". Cái thấy này là nồng cốt của lục căn, nhưng nó không phải là
lục căn. Lục căn có thể bị tiêu hoại, nhưng nó không tiêu hoại. Nó
không gián đoạn, nó bất diệt, và chính nó đã triển chuyển theo lẽ nhân quả,
trong cái vòng luân hồi qua các kiếp.
Ðọc Tây Du Ký, thì ta thấy Tề Thiên Ðại Thánh là cái Tâm. Nó ngang
ngược, thay đổi không ngừng, nhưng quyền năng của nó cũng vô cùng. Nó có
thể phá cửa nhà trời, cũng như có thể hồi đầu khi bị giam bởi thần lực của câu
chú: Ôm Ma Ni Pát Mê Hồng. Nó muốn lớn là được lớn, muốn nhanh được
nhanh, muốn chậm có chậm. Có thể biến hoá cây thiết bổng, có thể bước một
bước càn đẩu vân vượt qua 84 ngàn dặm, hoặc muốn bay như con ruồi cũng
được. Muốn có một thân cũng được, hoặc phân thân làm trăm ngàn cũng
có... Và Ngài Huyền Trang đã phải nương vào cái tâm đó, mới đi tới Tây
Trúc cầu một cuốn kinh vô tự.
Bây giờ nói đến Phật
Ðức Bồ Ðề Ðạt Ma, chống cây gậy trúc sang Trung Hoa ngồi quay mặt 9 năm
vào vách đá, nhắm đôi mắt biếc lại. Vua Lương Võ Ðế hỏi: Trẫm xây
hàng trăm ngôi chùa, nuôi hàng vạn chư Tăng, có công đức gì không? Ðức
Ðạt ma bảo, có chút ít, nhưng không ăn thua gì... Sở dĩ Ngài nói thế vì muốn
bảo vua rằng cần nhất là phải soi vào Tâm, để trở thành Phật.... Trong một buổi
thuyết pháp, Ngài lại bảo: Phật và Bồ Tát cũng đều là huyễn cả, còn là
mê. Hỡi ôi, tất cả đều là mê cả!!!
Trong Bổn Kinh A Di Ðà, thì Ðức Thích Ca lại căn dặn: "Về phía Tây,
có lạc quốc của Ðức A Di Ðà, bên cạnh có Ðức Quán Âm và Ðại Thế Chí. Ðức
Phật ấy có thực đấy và nguyện lực của Ngài lớn lắm. Các người nên cầu
nguyện mà sang đó."
Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy, một đằng bảo Phật là rất có thực,
một đằng nói là huyễn?
Thực ra không có gì mâu thuẫn. Chỉ là do mê và ngộ mà thôi.
Chư Phật vừa là huyễn vừa là thực. Khi tâm chúng ta còn mê mờ,
chúng sinh coi thân và tâm là thực, thì chư Phật đối với chúng sinh vẫn là thực
và có thể dùng tha lực cứu độ. Nhưng khi tâm chúng sinh đã ngộ rồi, thì
chúng sinh cũng trở thành huyễn, và chư Phật, vốn là những hình bóng, cũng trở
thành huyễn. Vì cái Tâm ngộ đã vượt qua được lãnh vực đối đãi (dualistic)
và đạt tới trực quan bất nhị. (phi hữu phi không)
Bởi thế, khi một người niệm Phật, và nuôi một ông Phật trong tâm, thì
lúc đầu chỉ có một ông Phật trong tâm thôi. Niệm lâu sẽ gây một luồng cảm
ứng làm động tâm Ðức Phật ở bên ngoài, tức Ðức A Di Ðà ở Tây Phương. Ðức
A Di Ðà liền làm mọc sẵn một chiếc hoa sen nơi lạc quốc để chờ người niệm
Phật. Niệm lâu hơn nữa, thì Ðức A Di Ðà sẽ đến trước mặt người đó.
Như thế, là có hai vị Phật, một ở ngoài và một ở trong tâm. Niệm đến chỗ
rốt ráo và tâm bất loạn, thì Ðức A Di Ðà sẽ lọt vào tâm người đó, và trở thành
một, và Phật thực cũng trở nên huyễn.
Cho nên, không thể nói Phật ở ngoài tâm hay trong tâm được. Nói ở
ngoài là nói thấp, nói ở trong là cao hơn một chút. Ðến chỗ rốt ráo, thì
Phật là tâm và tâm là Phật. Cả hai vừa là thực vừa là huyễn. Vả
lại, Tâm ở tất cả mọi chỗ, nên không có trong hay ngoài.
Có mấy chú học sinh Thiền học ngồi cãi nhau, chỉ một tảng đá trước mặt,
và tranh luận hăng hái. Kẻ thì bảo tảng đá ở ngoài tâm, một anh khác hùng
biện hơn nói là ở trong tâm, và có vẻ thắng lý. Chợt ông thầy đi qua,
cười bảo anh này: Ðá ở trong tâm mày, chắc đầu mày phải nặng, và nhức đầu
lắm!....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét