Đầu tượng Phật ở Ayutthaya - Thái Lan
(Cố đô Ayutthaya của Thái Lan được xem là quê hương của những tác phẩm tôn giáo đặc biệt, nhất là tượng Phật. Chùa Wat Mahathat (Chùa Đại Di tích) còn lưu phần đầu của một bức tượng Phật được làm từ đá sa thạch, phần còn lại của tượng đã bị thất lạc. Chiếc đầu tượng Phật này nằm kẹt trong rễ và dây leo của một cây cổ thụ. )
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn.
Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh.
Từ chỗ giác ngộ này, Đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép
lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua
hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày
nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý
ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này,
chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
Về vũ trụ
Ðức Phật ra đời trên sáu thế kỷ trước công nguyên, còn các nhà
khoa học được biết đến, mới có từ thế kỷ thứ 18 sau công nguyên. Thế mà ở thời
kỳ ấy, đức Phật nhìn trong vũ trụ thấy thế giới không thể kể hết, nên trong
kinh thuộc Hán tạng có những câu "Hằng hà sa số thế giới", nghĩa là
thế giới nhiều như cát sông Hằng (Ganges), hoặc câu "vi trần sát"
nghĩa là cõi nước (sát) nhiều như nhũng hạt vi trần. Ðến nay các nhà thiên văn
học nhờ viễn vọng kính nhìn thấy trong bầu hư không có không biết cơ man là thế
giới. Vô số ngôi sao lấp lánh hiện trên nền trời trong lúc ban đêm, mà mắt
chúng ta nhìn thấy được; là những hành tinh (thế giới), còn không biết có bao
nhiêu hành tinh khác quá xa mắt không thể nhìn thấy được. Chính đây là bằng
chứng cụ thể, nhờ khoa học giúp chúng ta hiểu được lời Phật dậy cách đây trên
25 thế kỷ: Lại nữa, có lần Ðức Phật cùng các thầy tỳ kheo đi vào rừng, nhìn
thấy những lá rơi lả tả và những lá vàng uá sắp về cành, đồng thời có nhũng
chòi non vừa nẩy lộc và những mầm vừa nhú khỏi vỏ cây, Ngài dạy các Tỳ Kheo:
Thế giới đang hoại, sắp hoại và đang thành cũng như lá cây trong rừng đang
rụng, sắp rụng và đang nẩy chồi, sắp nẩy chồi".Vì thế, đức Phật thường dạy
thế giới có bốn thời :Thành, trụ, hoại, không." Ngày nay các nhà khoa học
cũng thừa nhận thế giới phải trải qua bốn thời kỳ như thế. Ðây là cái nhìn
thích hợp giữa Phật học và khoa học mà cách cách nhau thời gian qúa xa.
Về vạn vật
Vạn vật sinh thành và hoại diệt trên đời, dưới con mắt trí tuệ
của đức Phật đều do "duyên khởi". Duyên khởi là nhân duyên sinh khởi,
không có một vật nào hình thành mà không do các duyên nhóm họp. Nếu nói sự vật
ngẫu nhiên tự thành, hoặc có bàn tay mầu nhiệm nào tạo dựng đều không đúng sự
thật. Ðức Phật xác nhận vạn vật do nhân duyên tụ họp thì thành, nhân duyên ly
tán thì hoại. Sự thành hoại cuả vạn vật đều do duyên, là chỗ thấy như thật của
đức Phật. Bởi thế trong kinh Phật thường dạy "Các pháp do duyên khởi,
không có thực thể, các pháp do duyên khởi, không có cố định". Không có
thực thể là thuyết "vô ngã". Không có cố định là thuyết "vô thường",
mà trong kinh thường nói "chư hành vô thường, chư pháp vô ngã". Không
khi nào có một nhân đơn thuần thành hình một vật, cũng không khi nào có sự bất
ngờ sinh ra một vật, mà phải đủ duyên mới thành. Vì vậy đức Phật không chấp
nhận thuyết "nhất nhân" và thuyết "vô nhân". Với sự thực
này, ngày nay khoa học đã làm sáng tỏ, chúng ta không còn gì phải nghi ngại.
Hơn nữa, trước mắt chúng ta thấy vô vàn sự vật, nếu đem ra phân tích đều do
nhân duyên hợp thành, không có vật nào tự thành hay do một cái gì đó làm thành.
Sự thật hiển nhiên này càng làm sáng tỏ lời đức Phật dạy. Chúng ta thấy rõ Phật
học và khoa học tuy thời gian cách xa mà không có giới tuyến ngăn cách.
Về con người
Khi Phật còn tại thế, Ngài nhìn trong bát nước thấy vô số vi
trùng, trong kinh Hán tạng có câu "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ
thiên trùng" Nghĩa là Phật nhìn trong bát nước thấy tám muôn ngàn (84000)
vi trùng. Ngày nay nhờ kính hiển vi, các nhà khoa học thấy trong nước có nhiều
vi trùng. Lại nữa, Phật nhìn thấy trong thân người thấy vô số vi trùng, trong
Hán tạng có câu "nhơn thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung nhi
trú" Nghĩa là trong thân người có vô số vi trùng đang trú ẩn bên trong.
Ðiều này ngày nay chúng ta chỉ cần có chút ít kiến thức khoa học là không còn
nghi ngờ gì nữa.
Nghiệp lực
Nếu không có một đấng nào an bày, muôn vật làm sao được sanh
thành, hoại diệt và sinh hoạt trong một trật tự nhất định? Nhà Phật nói
"do sức nghiệp thúc đẩy và thu hút mọi vật hình thành, khi mãn nghiệp thì
hoại diệt. Cũng như do động lực của nghiệp nên mọi vật sinh hoạt trong một trật
tự nhất định". Nghiệp là động lực lôi cuốn các duyên tụ họp lại thành hình
sự vật; khi sức nghiệp mãn các duyên ly tán thì sự vật hoại diệt. Nghiệp có khả
năng cuốn hút sự vật quay cuồng trong quĩ đạo nhất định. Ngày nay các nhà khoa
học đã nói do sức quay và sức hút của mọi vật trong vũ trụ, các hành tinh trong
bầu vũ trụ hoặc lớn hoặc nhỏ đều quay cuồng trong hư không và trong một quỹ đạo
nhất định. Cho đến nhỏ như một hạt nguyên tử cũng quay cuồng và xoắn chặt vào
nhau mà thành hình muôn vật. Ðộng lực quay và hút này do nghiệp lực tạo nên.
Nghiệp là đông lực lôi cuốn theo thói quen, đồng thời cảm ứng với vật khác đồng
tính nên bị thu hút. Do nghiệp chi phối nên con người và muôn vật trên thế gian
được thành hình và sinh hoạt trong một phạm vi nhất định nào đó, khi sức nghiệp
mãn con người và muôn vật theo đó hoại diệt. Song nghiệp có thể chuyển đổi
được, không phải cứng nhắc cố định, vì nó là động lực.
Tuy nhiên thuyết nghiệp báo luân hồi đã có trước thời đức Phật,
xuất phát từ các kinh Phệ Ðà (Véda); song với tinh thần tôn trọng chân lý, đức
Phật xét thấy đúng sự thật liền ứng dụng đem dậy đệ tử tu hành. Trong đó, đức
Phật có sửa đổi những phần lệch lạc theo quan niệm Bà la Môn giáo để lý thuyết
này được hoàn chỉnh hơn. Vì vậy, ngày nay mọi người đều thừa nhận thuyết nghiệp
báo luân hồi là của đạo Phật.
Ðạo Phật đặt trọng tâm ở con người - Chỗ thấy biết của đức Phật
đúng sự thật, hợp chân lý, nên trải qua thời gian dài mà không sai chạy hay lạc
hậu. Ðức Phật không dùng cái thấy biết tuyệt vời ấy để phân tích ngoại cảnh, sử
dụng ngoại cảnh phục vụ con người. Ngài chỉ dùng cái thấy ấy biết ấy để soi
sáng thẳng vào con người, để thấy biết con người tường tận từ thể xác lẫn tinh
thần. Biết rõ con người rồi, đức Phật dạy cách sống đúng tư cách con người,
đồng thời chuyển hoá thân tâm đẻ được an lạc trong hiện tại và mãi sau kia. Có
lần đức Phật cùng các thầy Tỳ kheo đi vào rừng Simma, Ngài dùng tay nắm một nắm
lá cây đưa lên hỏi các thầy Tỳ kheo" "Lá cây trong tay ta nhiều hay
lá lá cây trong từng nhiều?" Các thầy Tỳ kheo thưa :"Lá cây trong tay
Thế Tôn rất ít so với lá cây trong rừng". Ðức Phật dạy "Cũng thế, cho
ta thấy biết nhiều như lá cây trong rừng, những điều ta dạy các ông ít như lá
cây trong nắm tay ta" Ðiều này khiến chúng ta thấy rõ, dù việc ấy đúng sự
thật mà không cần thiết cho sự đào tạo xây dựng con người được an vui hạnh phúc
hiện tại và mai sau, Phật vẫn không đem ra chỉ dạy. Phật chỉ dạy những điều cấp
thiết để giải quyết mọi khổ đau cho kiếp sống con người. Vì tuổi thọ con người
quá ngắn (60--70 năm) không đủ thì giờ để học hiểu hết mọi điều trên thế gian
này.
Phần hệ trọng nhất nơi con người là tinh thần. Tinh thần sai sử
thể xác tạo thành nghiệp lành nghiệp dữ, cảm thọ quả khổ, vui ở hiện tại và vị
lai. Cho nên bao nhiêu lời khuyên răn của Phật đều đặt nặng sự chuyển hoá nội
tâm của con người. Con người nội tâm được trong sáng thì đời sống hiện tại đầy
đủ ý nghĩa, sau khi kết thúc cuộc đời mọi sự sáng trong tươi đẹp đang sẵn sàng chờ
chực. Ðây là trọng tâm cứu khổ chúng sinh của đức Phật Thích Ca, cũng là của
đạo Phật.
Ðạo Phật chủ trương giác ngộ, giải thoát, từ bi, bình đẳng - Ðức
Phật do giác ngộ nên thành Phật, suốt đời giáo hoá của Ngài cũng lấy giác ngộ
làm trọng tâm. Người tu Phật mà thiếu giác ngộ là không phải người đệ tử chân
chính của đạo Phật. Khổ đau gốc từ vô minh, muốn hết khổ đau phải dứt sạch vô
minh. Chỉ có ánh sáng giác ngộ mới dẹp tan được màn vô minh, ngoài giác ngộ ra
không còn cách nào dẹp được vô minh. Như chỉ có ánh sáng mới dẹp được bóng tối,
ngoài ánh sáng không có cái gì dẹp được bóng tối. Vô minh không tan thì đau khổ
làm sao hết được. Vì thế, phương pháp duy nhất để cứu khổ chúng sinh là giác
ngộ. Ðây là nguyên nhân đạo Phật lấy giác ngộ làm chủ yếu.
Nhờ giác ngộ con người mới giản trạch được điều chân lẽ ngụy,
thấy rõ cái gì trói buộc, cái gì tự d, nên chọn được lối sống thích ứng lẽ
thật, phù hợp với tinh thần tự do. Tự do đây không có nghĩa đòi hỏi bên ngoài,
nơi kẻ khác mà tụ chiến thắng những dục vọng đê hèn của mình, hàng phục được
vọng tưởng điên đảo của nội tâm. Ðúng với câu đức Phật dạy: Thắng một vạn quân
không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt". Tinh thần
tự do của đạo Phật là làm chủ toàn vẹn thể xác lẫn tinh thần của chính mình. Ðó
là tự do tuyệt đối, cũng là giải thoát của Phật dạy.
Ðem vui và giải khổ cho chúng sanh là lòng từ bi của đạo Phật.
Muốn cho mọi người hết khổ được vui, tu sĩ Phật Giáo lúc nào cũng đưa cao ngọn
đuốc chánh pháp cho mọi người mồi, để cùng thắp sáng trong căn nhà tăm tối muôn
đời của mình. Bản thân mình, người tu sĩ phải chiến thắng phiền não để làm mẫu
mực và chỉ dạy người dẹp trừ phiền não. Vô số khổ đau của chúng sanh đều phát
xuất từ si mê và phiền não. Thiếu thốn vật chất là đau khổ đã đành, có khi thừa
mứa vật chất người ta vẫn đau khổ như thường. Cho nên trí tuệ là hòn ngọc quý
để đổi lấy của cải và sự nghiệp, trí tuệ là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta
tránh khỏi lạc lối lầm đường. Dứt một phần phiền não, chúng ta được một phần an
lạc, hoàn toàn sạch phiền não thì còn gì làm phiền lụy chúng ta. Sau khi mở
sáng con mắt trí tuệ và dứt sạch phiền não, con người mới được an vui tự tại
đầy đủ. Người tu sĩ Phật giáo tha thiết cứu khổ chúng sanh bằng cách tận lực
chỉ dạy cho mọi người được trí tuệ và tự do.
Phật giáo chỉ nhìn chúng sanh đều bình đẳng trong bản tánh, chỉ
có sai khác trên nghiệp tướng. Nghiệp tướng là cái sinh diệt biến động, bản
tánh chưa bao giờ sinh diệt đổi thay. Cái sanh diệt biến động là tạm bợ, đã tạm
bợ dù sai khác thế mấy cũng không quan trọng. Chính cái quan trọng là bản tánh
thường hằng của chúng sanh. Cho nên đức Phật thường dạy "Tất cả chúng sanh
đều có tánh Phật", đó là lối nhìn bình đẳng của Phật giáo. Thấy thấu suốt
được lẽ này, chúng ta sẽ dứt được tâm tự cao ngã mạn và không còn dám khinh
thường một ai. Ðây là nền tảng đạo đức chân thật, nên Bồ tát Thường Bất Khinh
thấy ai cũng nói "Tôi không dám khinh các ngài, các ngài sẽ thành
Phật". Ðã sẵn có tánh Phật thì người nào tu mà chẳng được, chỉ do chưa
thức tỉnh và lười nhác mà thôi. Do cái nhìn thấu suốt này, người tu theo đạo
Phật không bao giờ có tâm kỳ thị với bất cứ nhóm nào, cũng không có tâm khinh
khi miệt thị ai.
Ðạo Phật lấy giác ngộ làm gốc rễ, lấy giải thoát làm hoa trái,
lấy từ bi và bình đẳng làm nhựa sống. Bốn yếu tố này rất thiết thân với nhân
loại văn minh. Bất cứ nền văn minh chân chính nào đòi hỏi con người phải có đủ
trí tuệ sáng suốt, thong thả tự do, tình thương làm vơi cạn đau khổ cho con
người, bình đẳng không chấp nhận giai cấp, không kỳ thị tôn giáo, chủng tộc,
màu da. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này, dù nói văn minh vẫn chưa thực sự
văn minh. Ðứng từ góc độ này mà nhìn, chúng ta thấy đức Phật đã quả thực đi
trước các nhà khoa học xa; tương lai dù nhân loại văn minh tiến bộ đến đâu cũng
khó qua mặt được đạo Phật.
Nguồn http://kienthuc.net.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét