Cũng cùng một đời sống, cùng hít thở không khí, cùng ăn uống
ngủ nghỉ, cùng một sinh hoạt của cuộc sống con người, thế mà chúng ta thấy có
một sự khác biệt lớn lao giữa một người sống được đạo Phật và một người
thường tục.
Người sống được đạo Phật thì mãn nguyện, không lo sầu, thảnh
thơi, thanh tịnh, tự do và an lạc:
Này ông, tâm không khổ
Với người không kỳ vọng Mọi sợ hãi không còn Với người kiết sử đoạn Nhờ đoạn nhân sinh hữu Pháp được thấy như thật Đối chết, không sợ hãi Nhờ gánh nặng đặt xuống Đạo Phật ta khéo hành Con đường khéo tu tập Ta không có sợ chết Khi gốc lão, bệnh diệt Bờ kia đến, không thủ Việc làm xong, sạch trong Bằng lòng, thọ mạng diệt Như thoát lò sát sinh Pháp tính đạt, tối thượng Ở đời, không sở hữu Như thoát ngôi nhà cháy Sống chết không sầu muộn Quá khứ, ta không có Tương lai hiện tại, không Các hành không thực hữu Ở đây, than khóc gì? Thanh tịnh pháp sinh khởi Thanh tịnh hành tương tục Bậc thấy được như thật Không sợ hãi, thưa ngài. (Trưởng lão Adhimutta)
Trong khi đó, thì cũng cùng một trời đất ấy, đất nước gió lữa
ấy, mà người bình phàm thì luôn luôn tương tục mọi điều phiền não, bất loại
nguyện, lo sợ, khổ đau, than khóc.
Sự khác biệt lớn lao ấy có thể nói là sự khác biệt giữa sinh
tử và Niết bàn. Cũng cùng một đời sống, cũng cùng những nguyên liệu dưỡng
chất trần gian, mà người thì hưởng thọ Niết bàn an lạc, người thì hưởng thọ
sinh tử khổ đau. Khởi điểm cùng truy tìm cuộc đời chân thật, cùng truy tìm
hạnh phúc, mà người thì đạt đến an vui vĩnh cửu, người thì loay hoay với món
nợ khổ đau, đó là do sự đúng sai trong cách đặt vấn đề về cuộc sống, do sự
đúng sai trong quan niệm về hạnh phúc. Đức Phật đề cập đến 3 loại quan niệm
sai lầm (tà kiến). Đó là tri giác sai lầm, suy tư sai lầm và kiến thức sai
lầm. Chính do sự sai lầm này dẫn dắt con người đến với khổ đau.
Chúng ta thấy muôn loài đều đi tìm hạnh phúc. Đạo Phật cũng
thế, cùng chung với mọi người, đạo Phật đi tìm hạnh phúc. Và nếu dùng chữ 'tu
hành' theo cái nghĩa để chỉ cuộc đi tìm hạnh phúc, thực hiện hạnh phúc, thì
quả thật, cả nhân loại không ai mà không tu hành. Người thì tu hành thực hiện
tiền tài, người thì tu hành thực hiện dục lạc, người thì tu hành thực hiện
danh vọng, người thì tu hành thực hiện trí thức ... là những thứ mà người đời
cho là hạnh phúc.
Nhưng tiếc thay, vì không thấy trước tất cả những cái đó đều
vô thường, vô ngã; tất cả những thứ đó đều vô nghĩa trước sự vận hành không
ngừng nghỉ của cuộc đời, nghĩa là sự vận hành không ngừng nghỉ của cái chết,
cho nên khổ đau, tiếc hận, không thể nắm giữ là điều tất yếu.
Chúng ta nhớ lại, đức Phật Thích Ca đã từ bỏ mọi thứ (những
thứ mà Ngài có hơn người đời rất nhiều kể về số lượng lẫn chất lượng) không
phải vì Ngài từ bỏ hạnh phúc để đi tìm khổ hạnh (nếu nghĩ đạo Phật là sự chối
bỏ hạnh phúc, tìm kiếm khổ hạnh thì chắc là đạo Phật đã không còn đến ngày
nay; trái lại đạo Phật tích cực rốt ráo, là đạo diệt khổ, thực hiện an vui
vĩnh cửu) mà vì Ngài thấy rằng những thứ hạnh phúc mà Ngài đang có chỉ là
hạnh phúc tạm bợ đặt căn bản trên sự vô thường và vô ngã của thế gian, bởi
thế Ngài bỏ tất cả để tu hành, thực hiện cái hạnh phúc tối thượng và vĩnh
cửu, gọi là Niết bàn.
Sự từ bỏ của đức Phật là một bài học vô giá cho thế gian, cho
mỗi một thân phận con người, rằng: Hạnh phúc thì không có ở kia, ở nơi những
sự vật rỗng không và tiêu hoại, mà chỉ có ở đây, trong sự thực hiện cái An
Vui không còn bị điều kiện, cái mục đích tối thượng của đời người mà chúng ta
có thể gọi là gì tùy theo sở thích, khuynh hướng, căn cơ: Niết bàn, Pháp
thân, tính giác, Bi Trí toàn mãn, Phật tính, khuôn mặt xưa nay ...
Trở lại với 3 sự sai lầm ở trên, tri giác sai lầm, suy tư sai
lầm và kiến thức sai lầm thì kinh điển thường đề cập đến 4 phương diện của
cái thấy sai lầm:
Vô thường mà cho là Thường
Bất toại nguyện, khổ mà cho là tọai nguyện, vui Vô ngã mà cho là ngã Bất tịnh, xấu dơ mà cho là thanh tịnh, đẹp sạch.
Do chạy đuổi theo cái thấy sai lầm đó mà có sinh tử khổ đau.
Thế gian đã đặt vấn đề sai, rồi không biết giải quyết vấn đề hay giải quyết
sai, từ đó duyên khởi ra một chuỗi mắt xích sai lầm vô tận. Vì không thấy
được bất toại nguyện, Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã cho nên đi tìm Vui trong
cái Khổ, đi tìm cái có trong cái không có, đi tìm cái thường còn trong cái
niệm niệm sinh diệt, đi tìm cái ngã trong chỗ không thể nào có ngã, bèn đuổi
bắt ảo vọng, rốt cuộc chỉ thấy có khổ, rỗng không, hoại diệt và bất an.
Trong khi đạo Phật thì giản dị mà sâu sắc vô cùng: ta cảm thấy
đau khổ, bất an, buồn chán ư? (Khổ đế). Phải đi tìm nguyên nhân thực sự của
cái khổ đó (Tập đế). Và khi thấy rõ nguyên nhân của nỗi khổ, nỗi khổ liền
tan, vì không còn đất để mọc rễ. Khi thấy được nguyên nhân của khổ, thì không
ai tiếp tục tự làm mình khổ, khi đã thấy cái nóng, cái bỏng là do tự mình lấy
lữa châm mình thì không ai tiếp tục châm đốt mình nữa cả (Diệt đế). Quá trình
giải quyết nỗi khổ, nỗi đau bấy giờ đã rõ ràng, tùy ta có thực hiện và thực
hiện đến mức nào hay không (Đạo đế).
Khổ, bất toại nguyện, không làm cách gì có thể thỏa mãn, vô
ích (như kinh Lăng Nghiêm nói là làm sao có thể nấu cát thành cơm; hay kinh
Viên Giác nói là làm sao có thể ngồi chờ hoa đốm kết thành trái), thì đã làm
người, ai cũng từng phải cảm nghiệm thấy. Nhưng nhìn thấy nỗi khổ, bất toại
nguyện ở nơi bản chất của chúng chớ không hời hợt nơi hiện tượng bề mặt thì
ít người thấy. Có lẽ ít trường phái triết lý nào tiếp cận được với chân lý
thứ nhất của đạo Phật là Khổ đế bằng phong trào triết học hiện sinh ở châu Âu
khoảng giữa thế kỷ 20.
Bằng cảm quan kinh tế của các nhà văn, bằng sự suy tư sâu sắc
của các triết gia, và bằng một sự đồng cảm tế nhị, triết học hiện sinh nhìn
ra tính cách khổ đế của thân phận con người; bị ném ra ngơ ngác giữa đời
sống, ngẫu nhiên, hoàn cảnh giới hạn, hữu hạn tính, cuộc đời là sự hướng về
cái chết, sự cô đơn không thể chia sẻ, sự bất định và mong manh của kiếp
người đến độ vô ích ...
Đời người cũng vô nghĩa đến độ khó chịu đựng như huyền thoại
Sysiphe: suốt đời lăn tảng đá lên núi cao, tảng đá sẽ rớt xuống trở lại và
rồi lại lăn lên tiếp để rồi lại rớt xuống, phải chăng đó là từng kiếp đời
thất bại không thể giải thoát của con người.
Vì không thấy được Tập đế, nguyên nhân của mọi phiền não, khổ
đau, của hữu hạn và thất bại ở trên, và sự giải quyết rốt ráo cho thân phận
con người là Diệt đế, nên các nhà hiện sinh tiến tới chọn một giải pháp sai
lầm, lấy đó làm ý nghĩa cho cuộc đời.
Khi thấy cuộc đời có làm gì cũng giới hạn giữa hai bờ sinh tử,
khi thấy cuộc đời hữu hạn và vô ích đến độ phi lý, họ đành cho con người một
quyền hạn càng nhỏ và mong manh hơn khuôn khổ của kiếp người, đó là sự nổi
loạn, sự chọn lựa để biểu lộ tự do. Sự tự do trong cuộc đời hữu hạn chật hẹp
vì vọng tưởng vô minh đó ắt cũng phải là một tự do nhỏ hẹp và buồn rầu.
Đó là hình ảnh của người anh hùng buồn rầu hành động để chỉ
thấy hành động là vô ích trong cuốn 'Thân phận con ngườí của André Malraux.
Đó là khi thấy trần gian này chỉ là một chốn lưu đày (như chàng cùng tử xa xứ
trong kinh Pháp Hoa), nhưng không biết quê nhà ở đâu, đành phải ngậm ngùi
chấp nhận cuộc sống lưu đày là quê nhà (tác phẩm Lưu Đày và Quê Nhà của A.
Camus). Thật khác xa với kinh nghiệm của Đại thừa trong cùng một lời nói:
Sinh tử tức Niết bàn. Ở đây sinh tử tức Niết bàn của Đại thừa là thấy được
thực tướng của sinh tử là Niết bàn, khi ấy, giả tướng sinh tử bèn tiêu mất,
chỉ còn thực tướng Niết bàn đi đâu cũng là Quê Nhà.
Chúng ta thấy rằng triết học hiện sinh đã giúp con người phản
tỉnh nhìn lại thân phận hữu hạn của mình với những vấn đề muôn đời của nó,
đặt con người trước nỗi cô đơn và trống rỗng khi đối diện với chính mình, đặt
con người trước mặt cái chết không thể trốn tránh, nhìn lại tính cách phù
phiếm của mọi sự thủ hữu. Có thể nói họ đã tiếp cận được chân lý đầu tiên của
đạo Phật là Khổ đế. Nhưng họ không thể đi xa hơn để thấy được nguyên nhân của
khổ, tức là Tập đế, nên không thể giải quyết vấn đề cho thân phận con người (Diệt
đế và Đạo đế). Do đó mà triết lý của họ trở thành bi quan, bế tắc. Bởi vì
phản tỉnh để thấy được khổ, nhưng không giải quyết được khổ thì càng khổ hơn
và không riêng gì triết lý hiện sinh mà cả văn chương, văn học nhân loại cũng
chỉ luẩn quẩn trong vòng khổ đế.
Phải nói rằng có rất nhiều người, xưa cũng như nay, chỉ nhìn
thấy Phật giáo ở giai đoạn Khổ đế này, cho nên có ý nghĩa rất sai lầm rằng
Phật giáo là bi quan, yếm thế, là xuất thế, hư vô. Nếu chỉ dừng ở Khổ đế như
triết học hiện sinh thì đạo Phật đã không là đạo Phật và không còn là một
nguồn sống cho loài người cho tới ngày nay. Đạo Phật thì tích cực rốt ráo, vì
không chỉ nêu lên thân phận trói buộc của con người, mà còn tìm ra nguyên
nhân của sự trói buộc, chặt đứt trói buộc để giải phóng thật sự con người
bằng một con đường tất yếu.
Có lẽ vì thế mà triết lý hiện sinh với những thủ lãnh trí thức
và uy tín hàng đầu của văn hóa Tây phương chỉ nở rộ được trong vài thập niên
giữa thế kỷ 20 và khi đạo Phật đã có mặt thật sự ở Tây phương, thì phong trào
hiện sinh ở châu Âu và thế hệ Beatle ở Bắc Mỹ đã tàn lụi nhanh chóng.
Nếu dùng danh từ hiện sinh để chỉ sự nhấn mạnh vào cuộc sống
hiện tại, đến sự cụ thể thực dụng của cái đang hiện tiền, không mơ tưởng hão
huyền ở một giải pháp nơi một đời nào khác, một nơi nào khác, không phóng ảnh
ra một thần linh ban ơn nào khác, thì phải nói không có một thứ hiện sinh nào
hơn đạo Phật, cái hiện sinh của người đã diệt khổ, chính niệm vào hiện tại,
hiện tại lạc thú:
Không hối tiếc quá khứ
Không chờ đợi tương lai Sống vĩnh viễn hiện tại Nên sắc thân sáng đẹp (Tương ưng I, 6)
Đó là cái hiện sinh "Niết bàn hiện tiền" của Lục Tổ
Huệ Năng: "Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài sắc thân riêng có Pháp
thân, lìa sinh diệt để cầu tịch diệt (Niết bàn), lại suy luận Niết bàn thường
lạc cho là có thân thọ dụng.
Đây là lầm chấp sinh tử, mê theo cái vui trần gian. Nay ông
nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân tướng năm uẩn là của mình, phân
biệt đủ thứ pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sinh, ghét tử, niệm niệm đổi
dời, không biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường
lạc đổi thành tướng khổ, trọn kiếp tìm cầu.
Phật vì thương những người mê ấy, chỉ dạy Niết bàn chơn lạc,
trong sát na không có tướng sinh, trong sát na không có tướng diệt, lại không
có sinh diệt nào để có thể diệt, ấy là Tịch Diệt Hiện Tiền. Chính ngay khi
hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Lạc ấy không có người thọ, cũng không có
người chẳng thọ, há nói rằng Niết bàn ngăn cấm các pháp hay sao?"
(Văn Hóa Phật Giáo)
|
Nguyễn Thế Đăng