Mục đích của Đạo Phật là diệt
khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con
đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Mục đích của Đạo Phật là giải thoát và
giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là phương tiện duy nhất đưa loài
người đến bờ giải thoát và giác ngộ.
Do vậy giai trò của người có
trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của
Đức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói Đạo Phật là đạo của người trí, là
đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho Đạo Phật.
Trước hết chúng ta nên phân
biệt giữa người có trí thức như thông thường được hiểu và người có trí tuệ
như Đạo Phật thường định nghĩa. Người có trí thức là người có thể có một trí
thức uyên bác về một vấn đề gì, có thể phân tích trình bày vấn đề ấy một cách
khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ biết chớ không có hành,
và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối, không được tự tại. Ví
như một người có thể hiểu biết rất nhiều về vấn đề rượu, hiểu rượu gồm có
những chất liệu gì, tác động của rượu đối với cơ thể như thế nào. Người ấy
gọi là người có trí thức về rượu nhưng người ấy vẫn uống rượu, vẫn bị say
rượu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy người ấy vẫn chưa có trí tuệ về rượu.
Trái lại, một người hiểu rõ được rượu là gì, biết rõ được sự nguy hại của
rượu, lại có khả năng không bị rượu chi phối, không uống rượu, không nghiện
rượu, không say rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy
được xem là người có trí tuệ về rượu. Có người hỏi, nếu có người không có trí
thức về rượu, nhưng không uống rượu, người ấy được xem là có trí tuệ không?
Lẽ dĩ nhiên là không. Người ấy vẫn hưởng được những lợi ích do không uống
rượu đưa đến, như không say rượu, không nghiện rượu do cử chỉ không uống rượu
của mình. Nhưng rất có thể, trong một trường hợp đặc biệt nào đó, vì thiếu
khả năng đối trị với sự cám dỗ của rượu, vị ấy bắt đầu uống rượu, đi đến say
rượu và nghiện rượu. Với sự phân biệt này chúng ta mới hiểu được định nghĩa
người có trí như đã được Đức Phật định nghĩa rất rộng rãi trong những lời dạy
của Ngài. Sự phân biệt này giúp chúng ta nhận định hai hạng người thường có
trong những người Phật tử. Một hạng người rất uyên bác trong Đạo Phật, hiểu
biết về kinh điển rất nhiều, nhưng vẫn xem là người không có trí tuệ. Hạng
người này hiện có khá nhiều trong những học giả, thuần túy nghiên cứu Đạo
Phật, uyên thâm trong ba tạng giáo điển, cả ba tạng nguyên thủy lẫn ba tạng
phát triển, nhưng chỉ có nghiên cứu, không có hành trì. Chỉ nói hành thiền
giỏi nhưng không hành thiền, trình bày hay về diệu dụng của trí tuệ, nhưng
không phát triển trí tuệ, do vậy cũng chưa được gọi là có trí tuệ. Một hạng
người khác, có lòng tín thành, hành trì theo những giới cấm trong Đạo Phật,
nhưng chỉ có lòng tin, chưa chuyển lòng tin thành trí, nên cũng không thể xem
là người có trí tuệ được vì người ấy vẫn có khả năng bị tham sân si chi phối
và do vậy, chưa được xem là người có trí tuệ.
Tuy vậy, người có trí tuệ
được đề cập rất nhiều trong những lời dạy của Ngài, và người có trí ở đây
được diển tả như một thứ lương tri, giúp chúng ta phân biệt chánh tà, thiện
ác, tịnh uế, lạc khổ, thắng liệt. Điều quan trọng là trí tuệ ở nơi đây không
còn là một đặc tánh hy hữu, có một không hai, mà trở thành như một thứ lương
tri luôn luôn có mặt trong chúng ta, tác động như một ngọn đèn soi sáng chúng
ta biết phân biệt chọn lựa giữa thiện và ác, giữa chánh với tà, khiến chúng
ta có thể nhận biết những gì nên làm, những gì không nên làm, để chúng ta tự
hướng dẫn mình tiến đến an lạc và giải thoát. Diệu dụng này được Đức Bổn Sư
chúng ta khéo léo diển tả đặc tánh, những thái độ, những việc làm của hai
hạng người, được gọi là kẻ ngu và người trí. Khi đọc qua những đoạn kinh diển
tả người ngu và người trí, chính lương tri chúng ta trở thành sinh động, giúp
chúng ta nhận hiểu một cách rõ ràng những gì là tốt đẹp và những gì là không
tốt đẹp cho mình và cho người.
Tăng Chi, Chương Ba Pháp,
Phẩm Người Ngu, nêu rõ sự sai khác một trời một vực giữa người ngu và người
trí: "Thành tựu với ba pháp, này các Tỷ-kheo, người ngu được biết
đến. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác... Thành tựu với ba
pháp, này các Tỷ-kheo, người trí được biết đến. Thế nào là ba? Thân làm
thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện" (Tăng Chi, III-2).
Cũng theo ý nghĩa này, Đức
Phật nói thêm: "Phàm có sợ hãi nào khởi lên, này các Tỷ-kheo, tất cả
sự sợ hãi đó khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có
những nguy hiểm nào khởi lên, tất cả những nguy hiểm ấy khởi lên từ người
ngu, không phải từ người hiền trí. Phàm có những tai họa nào khởi lên, tất cả
những tai họa ấy khởi lên từ người ngu, không phải từ người hiền trí ... Như
vậy người ngu có sợ hãi, người trí không sợ hãi, người ngu có nguy hiểm,
người trí không có nguy hiểm, người ngu có tai họa, người trí không có tai
họa. Này các Tỷ-kheo, không có sợ hãi đến với người trí, không có nguy hiểm
đến với người trí, không có tai họa đến với người trí" (Tăng Chi,
III-1). Thật là một sự xác chứng quá rõ rệt về sự sai biệt giữa người ngu và
người hiền trí, dưới cái nhìn của một bậc đã giác ngộ.
Một sự sai khác rõ rệt giữa
người ngu và kẻ trí là đối với các cảm thọ. Người ngu khi gặp khổ thọ về thân
thường sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực đi đến bất tỉnh. Đức Phật ví dụ
như người rơi vào vực thẳm, không đứng trên bờ, không đạt chỗ chân đứng an
toàn. Còn bậc trí, đối với khổ thọ về thân, thời "không sầu muộn,
không than van, không khóc lóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh".
Như vậy Đức Phật dạy vị ấy được gọi là: "Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều đã
đứng trên bờ vực thẳm, đã đạt tới chỗ chân đứng an toàn" (Tương Ưng,
IV-4). Bậc Đạo Sư lại nói thêm: "Người ngu si nghe ít, khi cảm xúc
khổ thọ, thời sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh."
Như vậy cảm thọ hai loại cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Đức Phật
ví như người bị bắn trúng hai mũi tên, vừa đau khổ về thân, vừa đau khổ về
tâm. Lại nữa, người ngu si ít nghe, khi cảm xúc khổ thọ, cảm thấy sân hận nên
sân tùy miên tồn tại và tăng trưởng. Vị ấy tìm sự xuất ly khỏi khổ thọ bằng
cách hoan hỷ dục lạc, do không tìm được một xuất ly nào khác. Do hoan hỷ dục
lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọ tồn tại và tùy tăng. Vị ấy không như
thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
các cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại
và tùy tăng. Như vậy, nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác
bất khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm giác như người bị trói buộc. Ở đây, Đức Phật
dạy: "Người ngu si nghe ít, bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu
bi khổ ưu não. Ta nói rằng người ấy bị trói buộc bởi đau khổ" (Tương
Ưng, IV-36-6).
Còn đối với bậc Thánh đệ tử
nghe nhiều, khi cảm xúc khổ thọ, không sầu muộn than van, khóc lóc, đập ngực,
đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác một cảm thọ, tức cảm thọ về thân, không
cảm thọ về tâm. Đức Phật ví như người ấy bị bắn bởi một mũi tên, chỉ đau khổ
về thân, không đau khổ về tâm. Lại nữa vị Thánh đệ tử nghe nhiều, khi cảm xúc
khổ thọ, không cảm thấy sân hận nên sân tùy miên không tồn tại tăng trưởng.
Vị ấy tìm được sự xuất ly ra khỏi khổ thọ, ngoài dục lạc. Vị ấy, không hoan
hỷ dục lạc, nên tham tùy miên đối với dục lạc không có tồn tại, không có tùy
tăng. Vị ấy như thật tuệ tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại
và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Do vậy vô minh tùy miên đối với bất khổ
bất lạc thọ không tồn tại, không có tùy tăng. Như vậy, vị Thánh đệ tử nghe
nhiều ấy cảm giác khổ thọ, cảm giác lạc thọ, cảm giác bất khổ bất lạc thọ,
không có như người bị trói buộc. Ở đây Đức Phật dạy: "Vị Thánh đệ tử
nghe nhiều, không bị trói buộc bởi sanh già bệnh chết, sầu bi khổ ư não. Ta
nói người ấy không bị trói buộc bởi đau khổ" (Tương Ưng, IV-36-6).
Được hỏi sự sai khác giữa
người ngu và bậc hiền trí, đối với các thân do vô minh che đậy, do ác phược
ràng buộc khởi lên quan điểm có thân này, có danh sắc ở ngoài. Do duyên thân
này, có sáu xúc xứ và có cảm thọ lạc khổ. Vậy có sự sai khác gì giữa bậc hiền
trí và kẻ ngu? Đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, bị vô minh che đậy, bị
tham ái trói buộc, thân này của người ngu được sanh khởi. Vô minh ấy, người
ngu không đoạn tận. Tham ái ấy, người ngu không tận trừ. Vì cớ sao? Này các
Tỷ-kheo, người ngu sống phạm hạnh không phải vì chơn chánh đoạn tận khổ đau.
Do vậy, người ngu khi thân hoại mạng chung, đi đến một thân khác. Do đi đến
một thân khác, vị ấy không thoát khỏi sanh già chết, sầu bi khổ ưu não. Ta
nói rằng vị ấy không thoát đau khổ" (Tương Ưng, II-12-19).
"Và này các Tỷ-kheo,
bị vô minh che đậy, bị tham ái hệ phược, thân người Hiền trí được sanh khởi. Vô
minh ấy, người hiền trí đoạn tận. Tham ái ấy, người hiền trí tận trừ. Vì sao?
Này các Tỷ-kheo, người hiền trí sống Phạm hạnh, vì chơn chánh đoạn trừ khổ
đau. Do vậy, người Hiền trí, khi thân hoại mạng chung không đi đến một thân
khác, vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.Ta nói
rằng: Vị ấy thoát khỏi đau khổ." (Tương Ưng, II-12-19).
Một phân biệt tế nhị nữa là
người trí ưa thích im lặng như biển lớn, như cái gì đầy tràn, như ao đầy
nước, còn kẻ ngu thì ồn ào như khe núi, như cái gì trống rỗng, như ghè với
nước.
"Hãy học các dòng
nước
Nước khe núi chảy ồn,
Từ khe núi vực sâu,
Biển lớn đầy, im lặng.
Cái gì trống kêu to,
Ngu như ghè với nước,
Cái gì đầy im lặng.
Bậc trí như ao đầy" (Tiểu Bộ I, 106)
Có người hỏi, vì sao bậc có
Trí sống phạm hạnh rừng sâu, ăn một ngày một bữa, lại có dung sắc thù diệu,
còn kẻ ngu lại héo mòn, như lau xanh rời cành. Đức Phật trả lời với bài kệ:
"Thường sống trong
rừng núi,
Bậc Thánh sống Phạm hạnh,
Một ngày ăn một buổi,
Sao sắc họ thù diệu?
Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh rời cành". (Tương Ưng, I-1-10)
Một số sai biệt nữa giữa
người ngu kẻ trí được khéo diễn tả trong một số bài kệ sau đây:
Về hạnh không phóng dật:
"Chúng ngu si thiếu
trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,
Như giữ tài sản quý". (Pháp cú 26)
"Người trí dẹp phóng
dật,
Với hạnh không phóng dật,
Leo lầu cao trí tuệ,
Không sầu, nhìn khổ sầu,
Bậc trí đứng núi cao,
Nhìn kẻ ngu, đất bằng". (Pháp cú 28)
Đối với đời, người ngu kẻ trí
có thái độ thật sai khác:
"Hãy đến nhìn đời
này,
Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm,
Kẻ trí nào đắm say". (Pháp cú 171)
Nhiều khi sự sai biệt giữa
người Trí kẻ ngu, sai biệt chỉ bằng gang tấc, tiến tới thành ngu, dừng lại
thành Trí:
"Người ngu nghĩ mình
ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí,
Thật xứng gọi chí ngu". (Pháp cú 63)
Một sự sai biệt khác, khá rõ
rệt là thái độ người ngu kẻ trí đối với Chánh pháp:
"Người ngu, dầu trọn
đời,
Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp,
Như muỗng với vị canh".
Người trí, dù một khắc,
Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp,
Như lưỡi với vị canh". (Pháp cú 64-65)
Ở nơi đây, chúng ta đã thấy
vì sao, người ngu hay xuyên tạc lời dạy của Đức Phật còn người hiền trí bao
giờ cũng giữ một thái độ đúng đắn, trung thành với lời dạy của Ngài:
"Này các Tỷ-kheo, có
hai hạng người này hay xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như
Lai có nói, có thuyết là Như Lai không nói, không thuyết, và người nêu rõ Như
Lai không nói, không thuyết là Như Lai có nói, có thuyết. Này các Tỷ-kheo, có
hai hạng người này xuyên tạc Như Lai."
"Này các Tỷ-kheo, có
hai hạng người này không xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người nêu rõ Như
Lai có nói, có thuyết là Như Lai có nói, có thuyết, và người nêu rõ Như Lai
không nói, không thuyết là Như Lai không nói, không thuyết. Có hai hạng người
này, này các Tỷ-kheo, không xuyên tạc Như Lai." (Tăng Chi, II-3)
Khi chúng ta hiểu được định
nghĩa người có trí ngang qua một số lời dạy của Đức Phật, chúng ta nay có khả
năng trình bày các định nghĩa căn bản của trí tuệ (pannà, prajnà) trong Đạo
Phật và khả năng của trí tuệ đưa đến giác ngộ và giải thoát.
Trước hết là một số định
nghĩa căn bản của Trí Tuệ: "Như thế nào được gọi là Trí Tuệ? Vì có
tuệ tri, vì có tuệ tri, nên được gọi là Trí Tuệ. CóTuệ tri gì? CóTuệ tri
(Pajànàti): đây là khổ, cóTuệ tri: đây là khổ tập, cóTuệ tri: đây là khổ
diệt, cóTuệ tri: đây là con đường đi đến khổ diệt. Vì có tuệ tri, có tuệ tri
nên được gọi là Trí Tuệ (Trung Bộ, I-43). Như vậy Trí Tuệ là biết với tri
tuệ, biết sự kiện, biết sự kiện tập khởi, biết sự kiện đoạn diệt, biết con
đường đưa đến sự kiện đoạn diệt. Mở rộng thêm định nghĩa này là tuệ tri vị
ngọt (assàda), tuệ tri sự nguy hiểm (àdinavà) và tuệ tri sự xuất ly
(Nissarana) của các pháp, và do vậy nói chung có tất cả bảy lãnh vực cần phải
tuệ tri, đối với một pháp, hay đối với bất cứ sự kiện nào, dầu tốt hay xấu
cũng vậy. Như lấy dục làm đối tượng, thời phải tuệ tri dục, dục tập khởi, dục
đoạn diệt, con đường đưa đến dục đoạn diệt, vị ngọt của dục, sự nguy hiểm của
dục và sự xuất ly ra khỏi dục. Biết như vậy mới gọi là tuệ tri.
Một định nghĩa nữa của Trí
Tuệ được đề cập đến. "Thế nào là tuệ lực? Ở đây vị Thánh đệ tử có trí
tuệ, thành tựu sự trí tuệ về sanh diệt, với sự thể nhập bậc Thánh vào con
đường đoạn tận khổ đau". Danh từ Pàli chuyên môn là Ariyàya
nibbedhikàya sammà-dukkha-kkhaya-gàminiyà (D. III, 237). Ở đây chữ
Nibbedhikàya có hai cách dịch, một là sự thể nhập, đi sâu vào con đường có
khả năng đoạn tận khổ đau, tức là có khả năng giải thoát khỏi đau khổ. Cách
dịch thứ hai là có khả năng đâm thủng dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, hay tham
sân si để cuối cùng đoạn tận khổ đau. Như vậy trí tuệ, ngoài khả năng tuệ tri
sự tập khởi và sự đoạn diệt còn có khả năng đâm thủng được vô minh để cuối
cùng được giải thoát. Một định nghĩa nữa lại càng làm rõ rệt hơn cái công
năng diệu dụng của trí tuệ (pannà): "Trí tuệ có nghĩa là thắng tri
(abhinnàttha), có nghĩa là liễu tri (parinnattha), có nghĩa là đoạn tận
(pahànattha)." Như vậy trí tuệ có khả năng thắng tri, tức là biết
với thiền định, và thiền định đây là bất động thức tư. Lại có khả năng liễu
tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn; và cuối cùng có khả năng đoạn tận được
các lậu hoặc, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, đoạn diệt được tham sân si, chấm
dứt khổ đau. Cho được rõ ràng hơn, chúng ta cần phân biệt tưởng tri
(sanjànàti) nhờ tưởng (sannà) đưa đến, và ý tri (jànàti) do ý (manas) đưa
đến. Tưởng tri, thức tri và ý tri là ba sự hiểu biết thông thường của thế
gian đưa đến sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, triết học, bác học, v.v...
Đạo Phật đóng góp thêm Thắng tri và Tuệ tri, sự hiểu biết ngang qua thiền
định, tạo thêm sức mạnh cần thiết để con người làm chủ được bản thân, làm chủ
được hoàn cảnh. Tuệ tri đưa đến một hiểu biết toàn diện, hoàn mãn, có khả
năng đâm thủng vô minh, đoạn tận tham sân si, đưa đến chấm dứt khổ đau. Nhưng
trí tuệ chưa phải lằ cứu cánh mà chỉ là phương tiện đưa đến giải thoắt. Với
trí tuệ như vậy, vị ấy sănh nhàm chán, ly tham đoạn diệt, từ bỏ, cuối cùng
đưa đến giải thoát, theo tiến trình như sau: "Do nhàm chán nên ly tham;
do ly tham nên giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng:
"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc gì nên làm đã làm. Nay không còn trở lại trạng thái này
nữa" (Tương Ưng, IV-35-28)
Như vậy, vai trò của trí tuệ
là lựa chọn các đối tượng để quán tri, để tuệ tri, và nhờ tuệ tri mới đưa đến
nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ, và cuối cùng là giải thoát. Các đối
tượng rất nhiều, tùy theo pháp môn lựa chọn, tùy theo căn cơ của vị hành giả
nhưng nếu đối tượng có khác, pháp môn tu tập có khác, tiến trình giải thoát
có thể xem là giống nhau hay gần giống nhau.
Sau đây là một số tiến trình
giải thoát, trích thuật từ Kinh Tạng Pàli, nói lên vai trò của trí tuệ đưa
đến giải thoát tri kiến.
Trong Kinh Xà Dụ, đối tượng
cần phải tuệ quán là năm thủ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bất cứ năm thủ
uẩn nào, quá khứ hiện tại vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng,
xa hay gần, tất cả năm thủ uẩn cần phải tuệ quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi,
cái này không phải tự ngã của tôi. Nhờ tuệ quán như vậy, vị đa văn
Thánh đệ tử yếm ly sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do yếm ly nên ly tham, do ly
tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: "Ta
đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những
gì nên làm đã làm, không còn trở lui lại đây với một đời sống khác". (Trung Bộ, I-22)
Trong Đại Kinh Mã Ấp, đối
tượng cần phải tuệ quán là khổ và các lậu hoặc. Vị hành giả cần phải tuệ tri:
"Đây là khổ"; "Đây là khổ tập"; "Đây là khổ
diệt"; "Đây là con đường đưa đến khổ diệt"; "Đây là những
lậu hoặc"; "Đây là những lậu hoặc tập khởi"; "Đây là
những lậu hoặc đoạn diệt"; "Đây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn
diệt". Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi
dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã được
giải thoát. Như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị
ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm.
Sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". (Trung Bộ, 1-39)
Trong Kinh Đoạn Giảm, đối tượng
cần phải tuệ quán là các sở kiến: "Này Cunda, những loại sở kiến này
khởi lên trên đời, hoặc liên hệ đến ngã luận, hoặc liên hệ đến thế giới luận,
chỗ nào những sở kiến này tiềm ẩn, và chỗ nào những sở kiến này hiện hành,
chỉ có cách như thật quán sát chúng với trí tuệ rằng: "Cái này không
phải của tôi, cái này không phẳi là tôi, cái này không phải là tự ngã của
tôi", có vậy thời có sự đoạn trừ những sở kiến ấy, có sự xả ly những sở
kiến ấy. (Trung Bộ, I-8).
Trong Kinh Mật Hoàn, đối
tượng được lựa chọn là các vọng
tưởng hý luận (papancasannasankhà): "Này các Tỷ-kheo, do bất cứ nhân
duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người. Nếu ở đây không có gì
đáng tùy hỷ, đáng đón mừng, đáng chấp thủ, thời như vậy là sự đoạn tận tham
tùy miên, sự đoạn tận sân tùy miên, sự đoạn tận kiến tùy miên, sự đoạn tận
nghi tùy miên, sự đoạn tận mạn tùy miên, sự đoạn tận hữu tham tùy miên, sự
đoạn tận vô minh tùy miên, sự đoạn tận chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh,
tránh tranh, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ. Chính ở đây
những ác, bất thiện pháp này đều được tiêu diệt, không còn dư tàn."
(Trung Bộ, I-18)
Trong Kinh Song Tầm, Đức Phật
kể lại kinh nghiệm của Ngài khi Ngài chưa giác ngộ, Ngài đã sử dụng bất thiện
tầm và thiện tầm như thế nào để hành trì giới định tuệ, cuối cùng đưa đến
giải thoát giác ngộ. Ngài chia các loại tầm ra hai loại - Bất thiện tầm là
dục tầm, sân tầm, hại tầm; và thiện tầm là ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại
tầm. Khi dục tầm, sân tầm, hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: "Các bất
thiện tầm này khởi lên nơi Ta, và các bất thiện tầm này đưa đến tự hại đưa
đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không
đưa đến Niết Bàn. Khi Bồ Tát khởi lên suy tư như vậy thời các bất thiện tầm
biến mất và vị Bồ Tát tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dứt các bất thiện tầm
khởi lên.
Khi ly dục tầm, vô sân tầm,
bất hại tầm khởi lên, vị Bồ Tát tuệ tri: "Các thiện tầm này khởi lên nơi
Ta và các thiện tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không
đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa đến
Niết Bàn. Nếu ban đêm Ta suy tư về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, không
phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Nếu ban ngày Ta suy tư về ly dục tầm,
vô sân tầm, bất hại tầm, không phải từ nhân duyên ấy, Ta thấy sợ hãi. Và nếu
ta suy tư, quán sát quá lău, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân Ta mệt mỏi thì
tâm bị dao động, khi tâm dao động, tâm rất khó được tịnh tỉnh. Rồi tự nội
thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tỉnh".
Với tâm định tỉnh như
vậy, vị Bồ Tát đoạn trừ năm triền cái, chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền,
tứ thiền, chứng túc mạng trí, thiên nhãn trí, lậu tận trí và cuối cùng được
giải thoát giác ngộ." (Trung Bộ, I-19)
Nay chúng tôi đề cập đến lý
duyên khởi để giải thích vai trò của trí tuệ, lấy con người làm đối tượng để
tuệ quán và từ nơi đây, vừa tìm được công thức đưa đến sự có mặt của con
người và sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn, vừa tìm được công thức duyên
diệt, đưa đến sự chấm dứt sanh tử và toàn bộ năm thủ uẩn này, như đã được
diễn tả trong Ái Tận Đại Kinh (Trung Bộ, I-38).
Trước hết, Đức Phật đặt vấn
đề sự có mặt của con người (Bhùta), sự có mặt này lấy bốn thức ăn làm nhân
duyên, làm tập khởi, làm sanh chủng, làm hiện hữu, và một khi bốn món ăn này
được đoạn diệt thì cũng chấm dứt sự có mặt của sinh vật này. Sinh vật đã do
bốn món ăn làm tập khởi, ái do thọ làm tập khởi, thọ do xúc làm tập khởi, xúc
do sáu xứ làm tập khởi, sáu xứ do danh sắc làm tập khởi, danh sắc do thức làm
tập khởi, thức do hành làm tập khởi, hành do vô minh làm tập khởi. Như vậy, duyên vô minh có hành, duyên hành có
thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc,
duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên
hữu có sanh, duyên sanh có già chết, sầu bi khổ ưu não.
Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ năm thủ uẩn.
Như vậy, do duyên sanh nên có
già chết, do duyên hữu nên có sanh, do duyên thủ nên có hữu, do duyên ái nên
có thủ, do duyên thọ nên có ái, do duyên xúc nên có thọ, do duyên sáu xứ nên
có xúc, do duyên danh sắc nên có sáu xứ, do duyên thức nên có danh sắc, do
duyên hành nên có thức, do duyên vô minh nên có hành. Như vậy Đức Phật xác
chứng duyên sanh của toàn bộ khổ uẩn tức là con người với công thức: "Cái này có mặt, cái đây có mặt. Cái
này sanh, cái đây sanh" (Ima smim sati idum hoti
Imass uppadà, idum uppajjati).
Từ lý duyên sanh, Đức Phật đi
đến lý duyên diệt. Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành
diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc
diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt.
Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt.
Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết, sầu bi khổ ưu não diệt.
Như vậy là toàn bộ năm thủ uẩn diệt.
Như vậy do sanh diệt nên già
chết diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do ái diệt
nên thủ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do sáu xứ
diệt nên xúc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do thức diệt nên danh
sắc diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy
Đức Phật xác chứng lý duyên diệt với công thức: "Cái này không có
mặt, cái đây không có mặt. Cái này diệt, cái đây diệt" (Imassa
asati, idam na hoti. Imassa nirodhà, idam nirajjhati). Vị hành giả, với trí
tuệ biết được hai công thức duyên sanh và duyên diệt, nên sau khi giữ giới,
sau khi chứng bốn thiền định, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, vị ấy không
tham ái đối với sáu trần khả ái, không ghét bỏ đối với sáu trần không khả ái,
vị ấy sống an trú niệm trên thân, với một tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ
tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng, các bất thiện pháp được
trừ diệt một cách hoàn toàn. Như vậy vị ấy từ bỏ thuận ứng nghịch ứng, có cảm
thọ nào khởi lên, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không đắm trước thọ
ấy. Vì vị ấy không có tùy hỷ, không có hoan nghênh, không có đắm trước, nếu
có dục hỷ (nandi) khởi lên, đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt có
dư tàn. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do
hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già chết sầu bi khổ ưu não diệt. Như
vậy là sự đoạn diệt toàn bộ năm thủ uẩn này.
Như vậy, với những đối tượng
sai khác như năm thủ uẩn, khổ và các lậu hoặc, các sở kiến, các vọng tưởng hý
luận, các bất thiện tầm và các thiện tầm, lý duyên khởi, trí tuệ đóng một vai
trò then chốt trong trách nhiệm tuệ tri các đối tượng, cuối cùng đoạn tận
được các lậu hoặc để chứng quả A-La-Hán.
Để nêu rõ định nghĩa và vai
trò của trí tuệ hơn nữa, chúng tôi ghi chép sau đây một vài câu Phật dạy
trích dẫn từ Kinh Tạng Pàli để chứng minh sự giải thích trên:
"Tất cả hành vô
thường
Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán :
Chính con đường thanh tịnh".
"Tất cả hành khổ đau
Với Tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán ;
Chính con đường thanh tịnh".
"Tất cả pháp vô ngã,
Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh". (Pháp Cú 277, 278, 279)
"Thấy khổ và khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành,
Đưa đến khổ não tận". (Pháp Cú 191)
"Mắt thịt, mắt chư
Thiên,
Vô thượng mắt trí tuệ,
Cả ba loại mắt ấy
Được bậc vô thượng nhân
Đã tuyên bố trình bày ...
Từ đây trí khởi lên,
Tuệ nhãn là tối thượng
Ai chứng được mắt ấy
Giải thoát mọi khổ đau". (Phật thuyết Như Vậy, trang 437-438)
Thích Minh Châu,
Trích:
"Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi".
Thiền viện Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1990
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét