Bài viết phân tích sự ngưỡng mộ bộc lộ mạnh mẽ trong cả cuộc đời lẫn tác phẩm
của Tagore đối với tầm vĩ đại của Đức Phật và văn hoá Phật giáo. Những bài ca,
bài thơ, vở kịch của ông thường mang âm hưởng ca ngợi những giá trị vĩnh cửu về
đạo đức và tính nhân văn của Đạo Phật cho đến nay vẫn chưa có ai có thể so sánh
nổi tại Ấn Độ. Lòng yêu mến và sự quan tâm sâu sắc của Tagore đối với sự phục
hưng của văn hoá Đạo Phật tại Ấn Độ cũng có thể coi như một lời tuyên bố của
ông đối với tôn giáo này.
Nhiều nhà nghiên cứu coi
Tagore như người đã giương cao ngọn đuốc của Đạo Phật và mang cảm hứng mới về
sự kết hợp hài hoà giữa thông điệp của Đạo Phật về sự bác ái, từ bi hỉ xả với
những nguyên tắc của đức vua Asoka. Nhưng trong khi những thông điệp của
Asoka và Đức Phật ít khi vượt ra ngoài biên giới của Ấn Độ khi họ còn sống thì
Tagore đã đi vòng quanh thế giới với thông điệp về tình yêu và sự thân thiện
hoà bình. Vì thế, bài viết cố gắng làm rõ phần nào sự đóng góp của tư tưởng
Phật giáo đối với việc hình thành tư tưởng của Tagore và tác phẩm của ông.
Nội dung
R. Tagore sinh trưởng trong một gia đình có tư
tưởng tự do. Ông nội của Tagore là ông hoàng Dwarkanath Tagore đã từng đi Anh
để xem xét và nghiên cứu những vấn đề xã hội trong giai đoạn đó. Ông hoàng cũng
là một người bạn của Raja Ram Mohan Roy. Cha ông, Maharsi Devendranath Tagore,
đã rời bỏ những tục lệ chính thống của Hindu giáo và chấp nhận tôn giáo của
những người Brahmo dựa trên giáo lý Upanishads. Các anh trai của
Tagore như Satyendranath và Jyotirindranath Tagore đều là những nhà cải cách xã
hội nổi tiếng. Đương nhiên là Tagore đã hấp thụ những tư tưởng tự do này và
phát triển tầm nhìn rộng rãi của mình về thế giới bên ngoài.
Trong suốt hai thập kỷ cuối thế kỷ XIX, R.
Tagore đã lôi cuốn các học giả của Ấn Độ vào những cuộc tranh luận nhằm chứng
tỏ sự vô nghĩa của những lễ nghi và tập tục trong xã hội Hindu giáo. Pandit
Shashadhar Tarkachuramani và Shri Chandranath Basu là những người nổi tiếng
nhất trong các học giả này. Họ cố gắng chứng minh rằng mọi tập tục xã hội và
tôn giáo của đạo Hindu đều dựa trên những nền tảng khoa học cơ bản nhất của sự
hiểu biết trong tác phẩm cổ đạiRishis. Nếu như có bất cứ phát minh khoa
học nào mới tại phương Tây thì họ lại vội chứng minh rằng những người Hindu đã
biết điều đó từ rất lâu rồi. Tagore đã cay đắng châm biếm sự trống rỗng cũng
như thói không khoan dung của nhân dân mình qua tác phẩm của ông.
1. Nền tảng tư tưởng của Tagore
Tagore sinh
ra trong một thời kỳ có ít nhất là ba phong trào chính trị xã hội đã đưa lại
cho xã hội Ấn Độ những trào lưu và khuynh hướng mới. Một trong ba phong
trào đó là phong trào mang tính tôn giáo với những tư tưởng cấp tiến
do Raja Ram Mohun Roy đứng đầu. Phong trào thứ hai là phong
trào mang tính văn học do Bankim Chandra Chatterjee khởi xướng và phong
trào thứ ba là phong trào mang tính chất chính trị xã hội của rất
nhiều những người mong muốn đi tìm tiếng nói cá nhân của mình.
Trong ba
phong trào đó, phong trào thứ nhất đã ảnh hưởng đến tư tưởng của Tagore nhiều
nhất. Mục đích của nó là đem lại một cuộc cách mạng về văn hoá và xã hội mới.
Phương tiện của nó chính là Brahmo Samaj, trong đó, cha của Tagore, ông
Maharashi Devendranath, chính là một thành viên. Chính ông đã lãnh đạo phong
trào này trong nhiều thập kỷ. Đây là một cuộc cách mạng của những con người là
những nhà khoa học, những trí thức mới kết hợp với truyền thống tinh hoa của
Hindu giáo. Trong trường hợp của Tagore thì cần phải kể thêm đến những ảnh
hưởng của Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa và những tư tưởng cấp tiến của châu Âu mà
ông nhận được. ở đây, chúng tôi chỉ xin chú ý đến Đạo Phật.
2. Bản chất tôn giáo theo quan điểm của Tagore
Tagore nói:
“ Theo khí chất của riêng tôi, tôi không thể nào chấp nhận một cách thụ
động bất kỳ một sự giảng dạy về tôn giáo nào chỉ dựa trên lý lẽ rằng tất cả
những người quanh tôi tin rằng nó là đúng”. Ông cũng nhận xét: “ Chúng ta
nên nhớ rằng tôn giáo và các tổ chức tôn giáo khác nhau như lửa và tàn tro. Khi
tôn giáo phải tìm đường đi qua các tổ chức tôn giáo thì cũng giống như dòng
sông bị tắc nghẽn bởi các đụn cát chắn ngang, dòng chảy bị nghẽn lại và chẳng
mấy chốc chỉ còn là sa mạc”[1]. Ông còn nói: “Trong các tôn giáo
chính thống, tất cả các câu hỏi đều được trả lời, tất cả sự hoài nghi phải tìm
ra sự cứu rỗi. Nhưng tôn giáo của một nhà thơ thì khác, nó giống như bầu khí
quyển bao quanh quả Đất nơi ánh sáng và bóng tối chơi trò đuổi bắt...Nó không
bao giờ dẫn bất kỳ ai tới bất kỳ đâu vĩnh cửu hay tới bất kỳ một kết luận tuyệt
đối chắc chắn nào. Nó hé mở cho người ta những vầng sáng không bao giờ cạn kiệt
và không có một bức tường nào có thể bao quanh nó hoàn toàn”[2]. Qua những điều mà ông bày tỏ, chúng ta
có thể thấy rằng Tagore có những quan điểm của riêng mình về vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo không phải là sự ẩn dật
Theo Tagore,
tôn giáo không phải là cách để người ta lẩn trốn khỏi thế giới đời thường. Ông
viết: “Một số người coi mục đích của tôn giáo là đi tìm một nơi mà người ta
có thể thở ra một hơi thư giãn, tránh khỏi những bổn phận của cuộc sống. Đó
chính là những thầy tu khổ hạnh. Điều đó thật là xa lạ đối với tôi”[3].
Tagore không đả kích các thầy tu khổ hạnh, ông
chỉ không tin rằng sự giải thoát có thể xảy ra với chính ông thông qua sự hành
xác và hy sinh quên mình. “Sự giải thoát không đến với tôi dưới hình ảnh của
sự hy sinh quên mình. Tôi cảm thấy vòng ôm của tự do trong hàng ngàn tia
sáng... Không, tôi không bao giờ đóng chặt những cảm giác của mình. Niềm vui
sướng tột cùng của việc ngắm nhìn, lắng nghe hay động chạm sẽ đem đến cho bạn
niềm vui sống”[4]. Đối với Tagore, con người cần phải thu
được và cảm thấy sức thu hút của mọi vật và điều này chỉ có thể xảy ra khi anh
ta hiến dâng toàn bộ sức lực của mình cho những bổn phận và trách nhiệm đối với
thế giới này.
Chính vì vậy
mà đối với Tagore, tôn giáo cũng giống như thứ tình cảm khi người ta nhớ nhà.
Người sùng đạo đang trên con đường thiêng liêng trở về ngôi nhà vĩnh cửu của
mình, giống như bầy sếu nhớ nhà bay ngày bay đêm để trở về nơi quê hương yêu
dấu. Trong Gitanjali- Thơ Dâng, Tagore đã
viết với tất cả sự nhiệt tình:
“Không
còn phải trôi từ bến này sang bến khác với chiếc thuyền tôi nay đã bão vùi gió
dập...
Giờ đây, tôi
đang háo hức để chết trong sự bất tử”...
Cốt lõi của tôn giáo
Tagore nói: “Từ sanskrit Dharma luôn
luôn được dịch ra tiếng Anh với nghĩa là tôn giáo thực ra có một ý nghĩa rất
sâu sác trong ngôn ngữ của chúng ta. Dharma là bản chất bên trong của
sự vật, là sự thật hàm chứa của tất cả mọi điều. Dharma là mục
đích tối thượng mà chúng ta đang vươn tới”[5]. Chính từ nghĩa mà người ta dịch từ này
thành “tôn giáo” thay cho “điều cốt yếu của vạn vật”. Tagore lại xác định rõ: “Trong
ngôn ngữ của chúng ta, tôn giáo có một ý nghĩa cơ bản. Nước chảy chính là đặc
điểm của nước, sự bập bùng của ngọn lửa nằm trong đặc điểm của ngọn lửa. Giống
như vậy, tôn giáo hay điều cốt yếu của con người là sự thật bên trong của anh
ta”[6]. Nhận định này của Tagore về tôn giáo
đáng được chúng ta xem xét kỹ hơn.
Dấu hiệu của tôn giáo
Tôn giáo liên quan đến những khái niêm nằm bên
ngoài. Con người không
thoả mãn với hiện tại của mình nhưng lại có khả năng để vượt khỏi chính mình
vươn đến những tôn giáo cao hơn. Chân lý chứa đựng bên trong con
người thúc đẩy anh ta vượt ra khỏi chính mình. Tagore nói:
“Dù có nhận thức hay vô thức, chúng ta mang
trong mình cảm giác về Chân lý lớn hơn vẻ bên ngoài của nó bởi vì cuộc sống của
chúng ta đang phải đối mặt với cái vô hạn và nó đang trong sự chuyển động. Cảm
hứng của nó do đó vô hạn, vượt ra khỏi những thành tựu mà con người đạt được”[7].
Nhận định này của Tagore về khả năng vượt ra
ngoài giới hạn của con người chính là nhân tố chủ yếu trong cảm hứng mang tính
tôn giáo của ông. Người ta không thể
nhận ra được toàn bộ sự tồn tại của mình qua những giới hạn của sự tồn tại của
chính mình mà là qua vị trí của anh ta trong sự vô hạn. Tagore viết:
“... Con người cần phải biết rằng dù anh
ta nỗ lực đến đâu thì anh ta cũng không thể nào tạo ra mật ong mà chỉ quanh
quẩn bên trong cái tổ của chính mình. Mọi nguyên liệu để tạo ra nguồn cung cấp
cho anh ta chính là ở bên ngoài những bức tường nhà anh ta”[8].
Khi một con người đánh mất tầm nhìn về cái bên
ngoài và không nghe thấy tiếng gọi của tinh thần vĩnh cửu, anh ta đang đứng
trên bờ vực thẳm của sự xuống cấp.
Tôn giáo cũng mang tính nhân văn ở bên trong của
nó. Tôn giáo chính là sự
bộc lộ phương diện nội tâm chủ yếu của con người. Đây chính là phương diện nhân
văn tạo nên nền tảng của tôn giáo. Tagore viết: “Chính là nhờ phương diện
nhân văn của chân lý này mà tất cả những nhân cách vĩ đại đã tạo nên chính
chúng và mang tới cho các đồng bào của họ tính nhân văn dù họ có nhân danh của
các tôn giáo khác nhau”[9].
Tôn giáo cũng chính là sự chấp nhận về tinh
thần. Tagore đã nhận xét rằng tôn giáo là chân lý về mặt tinh thần. Vậy tinh
thần chính là cốt lõi của tôn giáo. Tôn giáo của con người, theo như Tagore, đã
làm cho anh ta thức tỉnh, nhận thức về một cái gì chung nhất bên ngoài vũ trụ
bé nhỏ của mình. Nó dẫn anh ta đến việc đặt niềm tin vào một trật tự tinh thần.
Một vài đặc tính khác của tôn giáo qua cách nhìn
của Tagore
Một nhận xét quan trọng của Tagore về tôn giáo
là đặc tính đạo đức và mỹ học của nó. Đối với Tagore, nghệ thuật và tôn giáo có một mối quan hệ không
thể tách rời. Ông gọi tôn giáo của mình là tôn giáo của nhà thơ.
Cuộc sống về tôn giáo và cuộc sống về thơ ca của ông đã hoà quyện nhuần nhuyễn
với nhau.
Về một phương diện đặc biệt nào đó, tôn giáo của
Tagore mang tính nhân văn sâu sắc. Mục đích của thứ tôn giáo này theo như chính Tagore xác định là
khơi dậy và đề cao sự thánh thiện bên trong bản chất của con người.
Mục đích của tôn giáo theo Tagore là để mở cánh
cửa vào bên trong thế giới nội tâm của con người. Điều này chứng tỏ rằng trong quan niệm về tôn
giáo của mình, Tagore đặc biệt quan tâm đến con người. Điều này hoàn toàn đúng
cả về quan điểm mang tính trừu tượng lẫn thực tiễn. Từ quan điểm thực tiễn,
tình yêu đã trở thành một phương tiện tôn giáo và thứ tình yêu ấy cần phải tìm
ra sự đồng điệu với mọi vật. Chính ở phương diện này mà Tagore nói “Tôn giáo
của tôi là tôn giáo của con người”.
Theo Tagore, tinh thần là yếu tố thống trị của
tôn giáo. Tôn giáo khiến cho con
người nhận thức được mối đồng cảm từ hiện thực cuộc sống xung quanh bên ngoài
sự tồn tại của mình.
Có hai yếu tố chính trong tôn giáo: thứ nhất là cốt lõi của nó và thứ hai là sự
bộc lộ của nó trong cuộc sống và sự tồn tại. Yếu tố đầu mang ý nghĩa tinh thần
trong khi yếu tố thứ hai mang phương diện xã hội và đạo đức.
Tagore cho rằng tôn giáo chủ yếu quan tâm đến
cuộc sống nội tâm của các cá nhân. Về cơ bản nó chính là sự tồn tại dựa trên chủ quan của con người
và vì thế tôn giáo chính là sự bộc lộ bản chất thực sự của con người. Tôn giáo,
do đó, được Tagore coi như một động lực khiến cho tính cách tồn tại, biến đổi
và phát triển. Chính trên những ý tưỏng này về tôn giáo mà Tagore đã coi chủ
nghĩa nhân đạo là tôn giáo của mình. Theo ông, tôn giáo không thể mang tính
chất xa lánh trần tục, ghét đời và ẩn dật tuyệt đối. Cuộc sống tôn giáo của con
người nghĩa là sự đối mặt thường xuyên liên tục đối với những khó khăn, thách
thức, những hạnh phúc và đau khổ của chính họ.
Từ sự phân tích ở trên, chúng ta có thể tìm hiểu
sâu hơn về những ảnh hưởng của Phật giáo đối với Tagore và tác phẩm của ông.
3. Tagore và Đức Phật
Những ví dụ về sự thành tâm của Tagore đối với
Đức Phật có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm của ông. Ông viết:
“Tư liệu về những dấu vết của tư
tưởng và văn hoá Ấn Độ in dấu trong văn học Phật giáo đã khiến việc hiểu biết
về toàn bộ lịch sử Ấn Độ trở nên một nhiệm vụ không thể làm tròn nếu chúng ta
thiếu sự gần gũi và hiểu biết chúng. Nếu đã hiểu rõ như vậy thì sao chúng ta
lại không thể có những người trẻ tuổi tận tâm dâng hiến cho việc phục hiện lại
di sản Phật giáo và coi đó là sứ mệnh của mình trong cuộc sống hay sao?”[10]
Vào thời gian đó, Tagore đã giới thiệu Phật giáo
trong một khoá học đặc biệt cho sinh viên của ông tại Santiniketan. Để mở rộng
kiến thức về Phật giáo, ông đã ủy nhiệm Giáo sư Nitai Benode Goswami tới
Ceylon, pháo đài của Đạo Phật. Trung tâm nghiên cứu Phật giáo do Tagore xây
dựng nên ở Santiniketan ngày nay là một trong những nơi có những chuyên đề về
Đạo Phật tuyệt vời nhất thế giới.
Edward Thompson đã từng nói: “Ông
[Rabindranath Tagore] thờ Đạo Phật nhiều hơn là có cảm tình với vài giáo phái
của đạo Bà-la-môn- thứ tôn giáo vốn thịnh hành nhất tại mảnh đất Bengal quê
hương ông”[11].
Trong buổi lễ khánh thành việc tái tạo tu viện
Mulagandhakuti Vihara tại tháp lớn Sarnath, nơi đức Phật lần đầu tiên công bố
giáo lý của Ngài, Tagore ngày đó 26 tuổi xuất thần đưa ra lời cầu nguyện bằng một
bài thơ:
Nguyện cầu xin Ðấng Chí tôn, một lần nữa giáng
xuống nơi đây uy danh của Ngài,
Uy danh đã làm cho đất sanh thành của Ngài (đất Ấn Ðộ) thành nơi chiêm ngưỡng của bao nhiêu giải đất gần và xa!
Xin ánh sáng giác ngộ của Ngài dưới cây bồ đề lại sáng chói niềm toàn vẹn,
Ðẩy xa âm u ngu muội;
Và cầu xin đêm tối chấm dứt, để kỷ nguyên của Ngài lại rực rỡ trên đất Ấn Ðộ[12].
Thông điệp về tinh yêu thương của Đức Phật trong một thế giới “điên cuồng của sự căm ghét” đã chinh phục khối óc và trái tim của Tagore:
Uy danh đã làm cho đất sanh thành của Ngài (đất Ấn Ðộ) thành nơi chiêm ngưỡng của bao nhiêu giải đất gần và xa!
Xin ánh sáng giác ngộ của Ngài dưới cây bồ đề lại sáng chói niềm toàn vẹn,
Ðẩy xa âm u ngu muội;
Và cầu xin đêm tối chấm dứt, để kỷ nguyên của Ngài lại rực rỡ trên đất Ấn Ðộ[12].
Thông điệp về tinh yêu thương của Đức Phật trong một thế giới “điên cuồng của sự căm ghét” đã chinh phục khối óc và trái tim của Tagore:
Mọi sinh linh khẩn cầu xin Ðức Thế Tôn lại giáng xuống trần!
Ngài, đấng vô lượng thọ, vô đẳng luân
Xin xót thương ban niềm hy vọng muôn đời,
Xin tưới xuống mật ngọt vô lượng tỏa ra
từng cánh trên đài sen sáng chói!
Thanh thản làm sao, bao la làm sao
là đức từ bi vô lượng, là lòng hỷ xả không bờ
của đấng Thế Tôn.
Xin giang tay xóa bỏ mọi tục lụy
trên cõi ta bà này[13]
Ngài, đấng vô lượng thọ, vô đẳng luân
Xin xót thương ban niềm hy vọng muôn đời,
Xin tưới xuống mật ngọt vô lượng tỏa ra
từng cánh trên đài sen sáng chói!
Thanh thản làm sao, bao la làm sao
là đức từ bi vô lượng, là lòng hỷ xả không bờ
của đấng Thế Tôn.
Xin giang tay xóa bỏ mọi tục lụy
trên cõi ta bà này[13]
Vào ngày 8/5/1935, Tagore nhận lời mời của Hội
Maha Bodhi Society đến chủ tọa ngày Phật đản sinh- Buddha Purnima Day,
ông nói:
"Ngày trăng tròn visakha hôm nay, tôi
được đến đây thành tâm thiết lễ Ðản Sanh của đấng Chí Tôn. Tôi xin cúi đầu thi
lễ trước Đức Phật mà từ đáy lòng tôi hiểu Ngài là con người cao cả nhất trong
mọi tầng lớp người đã sinh ra trong cõi đất này. Ðây là dịp cho tôi chứng minh
được lòng tôn kính của tôi đối với Đức Phật, đây là cơ hội hãn hữu đối với tôi.
Tôi xin thành kính thi lễ kính Đức Phật mà mỗi ngày tự trong thâm tâm tôi vẫn
thành kính chiêm ngưỡng"[14]
Giáo sư Krishna Kripalani tác giả bộ tiểu sử
bằng tiếng Anh được xem là xác thực nhất của Tagore viết là Tagore vô cùng kiêu
ngạo, suốt đời ông chưa hề quỳ lạy một người hay hình tượng nào. Thế nhưng
Tagore nuôi lòng kính trọng sâu sắc với Đức Phật ở Bồ đề Đạo tràng Bod Gaya,
Saranath, và những nơi thiêng liêng khác của Đạo Phật. Ông bày tỏ điều đó với
những tình cảm sâu sắc: “"Tôi là một đệ tử của Ðức Phật, quy y vì trí
tuệ của Ngài. Thế nhưng mỗi khi tôi đến những nơi có xá lợi của Ngài, tôi vô
cùng xúc động vì cảm thấy được gần gũi Ngài"[15]. Khi đề cập đến chuyến đi của Tagore đến thăm Đức
Phật ở Bồ đề Đạo tràng Bod Gaya, ông Krishna Kripalani viết: “Chỉ một lần
trong đời, Rabindranath kể lại rằng ông thấy muốn quỳ lạy một thần tượng, đó là
khi ông thấy Đức Phật ở Bồ đề Đạo tràng Bod Gaya”. [16] Thông
qua ngòi bút của Tagore, lòng kính trọng của ông đối với Đức Phật (được coi là
biểu tượng sống của văn hoá Ấn Độ) càng tăng lên khi ông chứng kiến ảnh hưởng
của Ngài tại Java, Bali, Xiêm (tên cũ của Thái Lan), Miến Điện, Nhật bản, Trung
Hoa và các nơi khác vẫn muôn năm bất diệt, không hề bị thời gian làm cho lu mờ.
Nhân dịp đến thăm ngôi đền nổi tiếng Borobudur tại Java, ông viết:
Con người hôm nay không còn chút yên vui,
trái tim khô cạn,
rong ruổi chạy theo bả lợi quyền trước mặt,
lợi quyền mà khi buông tay không còn chút ý nghĩa gì.
Ðã đến lúc ta phải suy tư tự tại
trú chân giữa cơn lốc vũ bão,
để nhận chân đức từ bi vô lượng
là ý nghĩa tận cùng của tự do
Và nguyện cầu: Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh... [17]
trái tim khô cạn,
rong ruổi chạy theo bả lợi quyền trước mặt,
lợi quyền mà khi buông tay không còn chút ý nghĩa gì.
Ðã đến lúc ta phải suy tư tự tại
trú chân giữa cơn lốc vũ bão,
để nhận chân đức từ bi vô lượng
là ý nghĩa tận cùng của tự do
Và nguyện cầu: Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh... [17]
Khi Tagore đi du lịch qua Xiêm- Thái Lan ngày
nay với tư cách “một người hành hương”, ông bày tỏ sự sung sướng khi
nhìn thấy hình ảnh của văn hóa văn minh Phật giáo. Ông viết: “Nếu ta muốn
biết sự hùng mạnh thực sự của Ấn Độ thì nên ra nước ngoài. Hình ảnh của Ấn Độ
như chúng ta thấy ở đây thật quả dữ dội; một dạng thức khác biệt và cũng hào
nhoáng hơn của một Ấn Độ vĩnh cửu mà chúng ta chỉ có thể tìm thấy từ bên ngoài”[18].
4. Đạo Phật trong một số tác phẩm của Tagore
Tagore có
một tình yêu và lòng ngưỡng mộ thực sự đối với Đức Phật và Đạo Phật. Ông
coi Đức Phật là “Con người vĩ đại nhất đã từng sinh ra trên Trái Đất”. Sự
ngưỡng mộ về tầm vĩ đại của Đức Phật và sự vĩ đại của văn hoá Phật giáo đã được
bộc lộ mạnh mẽ trong cả cuộc đời lẫn tác phẩm của Tagore. Những bài ca, bài
thơ, vở kịch của ông thường mang âm hưởng ca ngợi những giá trị vĩnh cửu về đạo
đức và tính nhân văn của Đạo Phật cho đến nay vẫn chưa có ai có thể so sánh
nổi tại Ấn Độ. Bên cạnh đó, lòng yêu mến và sự quan tâm sâu sắc của Tagore đối
với sự phục hưng của văn hoá Đạo Phật tại Ấn Độ cũng có thể coi như một lời
tuyên bố của ông đối với Phật giáo. Nhiều nhà nghiên cứu đã coi Tagore như một
người đã giương cao ngọn đuốc của Đạo Phật và mang cảm hứng mới về sự kết hợp
hài hoà giữa thông điệp của Đạo Phật về sự bác ái, từ bi hỉ xả với những nguyên
tắc của đức vua Asoka. Nhưng trong khi những thông điệp của Asoka và Đức Phật
ít khi vượt ra ngoài biên giới của Ấn Độ khi họ còn sống thì Tagore đã đi vòng
quanh thế giới với thông điệp về tình yêu và sự thân thiện hoà bình.
Không ai
ở Ấn Độ có thể miêu tả các chủ đề về Phật giáo đẹp đẽ và phong phú hơn Tagore.
Những vở kịch và các vở vũ kịch của ông như Natir Puja-Sự thờ phụng của
cô vũ nữ và Chandalika đã được công diễn và ca ngợi
cả trong Ấn Độ và nước ngoài. Những bài thơ và các câu chuyện kể của ông về chủ
đề Phật giáo đã làm giàu có thêm di sản văn học quí báu của Ấn Độ. Các bài ca
tuyệt vời của Tagore khi ca ngợi Đức Phật cũng vượt trội tất cả những bài ca đã
từng được sáng tác về giai điệu và lòng sùng kính. Có thể nói, không ai có thể
so sánh với Tagore về việc sáng tác và ca ngợi Phật giáo trong văn học và nghệ
thuật đương đại tại Ấn Độ.
Tagore đã
từng kể rằng nhà thơ đã cảm thấy một lòng ngưỡng mộ và cảm hứng cao độ khi ông
lần đầu tiên tiếp xúc với các câu chuyện Phật giáo qua tác phẩm Sanskrit
Buddhist Literature of Nepal-Văn học Phật giáo của Nepal(năm 1882) của tác
giả Rajendralal Mitra, một người đi tiên phong về nghiên cứu Phật giáo ở
Bengal. Có thể nói rằng các bài thơ và câu chuyện kể của ông về Phật giáo đã
dựa trên cảm hứng của các câu chuyện được sưu tập trong cuốn sách này. Tuy
nhiên, Tagore đã đưa ý nghĩa xã hội và nghệ thuật cũng như tư tưởng của các câu
chuyện này lên một tầm cao mới.
Trong các
tác phẩm của mình, Tagore đã trung thành thuật lại và mô tả chính xác thời kỳ
Phật giáo và hơi thở của thời đại. Ông tôn vinh những giá trị vĩnh cửu của Đạo
Phật lên trên tất cả những vấn đề phức tạp và xung đột của thời đại. Có thể kể
ra những tác phẩm được coi là có giá trị hàng đầu của Tagore như Malini, Natir
Puja-Sự thờ phụng của cô vũ nữ và Chandalika đều được
dựa trên chủ đề về Phật giáo. Ông đã dám đặt những giá trị nhân bản của Phật
giáo lên trên những rào cản về tôn giáo và đẳng cấp của Hindu giáo trong các
tác phẩm này. Chính những giá trị nhân bản này giải thích vì sao các lý tưởng
của Phật giáo nhiều khi lôi cuốn ông hơn những nghi lễ và luật lệ hà khắc của
Hindu giáo.
Malini (1896)
được viết dựa trên một truyền thuyết của Mahavastu được kết
hợp với một câu chuyện mà Tagore đã nằm mơ thấy khi ông còn ở London. Nhà thơ
mơ thấy cảnh tượng về sự phản bội giữa hai người bạn nổi dậy chống lại chế độ
hà khắc đương thời và cuối cùng đều bị nhà vua đương quyền dẹp tan. Những người
nổi loạn bị bắt và bị dẫn tới trước mặt nhà vua. Trước khi bị xử tội, người bị
phản bội yêu cầu nhà vua cho gặp người bạn của mình. Người bạn được dẫn đến và
người bị phản bội đã đánh anh ta đến chết bằng cái xích tay của mình.
Theo câu
chuyện đã diễn ra trong thực tế lịch sử, Mahavastu Avadana Malini, công chúa xứ
Varanasi bị lưu đầy khỏi đất nước vì những người Bàlamôn không bằng lòng với
việc nàng cải sang Đạo Phật. Lòng sùng kính và đức hy sinh của nàng đã khiến
đức vua và các hoàng tử cũng như các quan đại thần cảm phục và tất cả đã cải
sang Đạo Phật. Tuy nhiên, Tagore đã xử lý đề tài này theo một hướng khác và tạo
ra thêm hai nhân vật là Supria và Kshemankar. Kshemankar tượng trưng cho lòng
thù hận của những người Bàlamôn không chịu từ bỏ những quyền lợi và luật lệ của
mình dưới triều vua mới nên đã ngấm ngầm hợp tác với quân đội nước ngoài để lật
đổ đức vua nhưng bị Supria phát giác. Kshemankar bị bắt giữ và đem ra xử tội
nhưng Supria và Malini đã xin đức vua tha tội cho anh ta. Tuy nhiên, lòng thù
hận đã khiến Kshemankar mờ mắt, anh ta đã đâm Supria tới chết. Malini đã xin
đức vua một lần nữa tha tội cho Kshemankar và ngất đi vì đau đớn trước cái chết
của người yêu.
Trong vở
kịch này, Tagore đã đặt sự khoan dung và tình thương yêu con người của Đạo Phật
lên trên lòng hận thù và sự lạnh lùng đố kỵ của Hindu giáo.
Vở Raja-
Đức vua (năm 1910) được dựa trên cơ sở của truyền thuyết về Kusa trong
cuốn Mahavastu Avadana. Công chúa Sudarshana rời bỏ chồng vì anh ta
có vẻ ngoài xấu xí và trở thành mồi ngon của bảy vì vua khác. Cuối cùng, nàng
được chính người chồng xấu xí của mình là Kusa cứu. Từ một câu chuyện mang tính
truyền thuyết, Tagore đã đưa câu chuyện lên một tầm cao mới về tư tưởng, mang
tính biểu tượng là con người cần phải vươn tới cái Tuyệt đối, vượt qua sự tầm
thường nhỏ nhặt của cuộc sống đời thường để đi sâu vào bản chất của tâm hồn con
người. Công chúa Sudarshana cuối cùng đã từ bỏ lòng kiêu hãnh về sắc đẹp bề
ngoài và hoàn toàn bị phẩm chất cao đẹp của chồng mình chinh phục.
Naja Puja (năm
1926) hay Sự thờ phụng của cô vũ nữ cùng với bài thơ Pujarini (năm
1899) được dựa trên truyền thuyết Avadanasataka. Vở kịch được
Tagore viết nhân ngày sinh của chính ông. Đây là vở kịch hay nhất của Tagore
dựa trên chủ đề về Đạo Phật và cũng là một trong những vở kịch hay nhất được
viết bằng tiếng Bengali.
Đức Phật từng ngồi dưới một gốc cây asoka trong
khu vườn toà lâu đài của đức vua Bimbisar, xứ Magadha và giảng đạo. Tại địa
điểm đó, sau này vì vua sùng đạo đã xây một ban thờ và cứ vào đêm trăng tròn
hàng tháng, ông lại mời các vũ nữ đẹp nhất giỏi nhất tới múa để tỏ lòng thành
kính. Sau khi con trai của vua Bimbisar lên ngôi, anh ta bèn ra lệnh cấm tất cả
những nghi lễ thờ cúng đó vì anh ta không tin vào Đạo Phật, nếu ai không tuân
theo sẽ bị tử hình. Thế nhưng vào ngày trăng tròn tháng đó, cô vũ nữ Srimati đã
bất chấp tất cả, hiến dâng mạng sống của mình để bày tỏ lòng sùng kính với Đức
Phật.
Có rất nhiều
ví dụ về lòng hy sinh trong lịch sử Ấn Độ vì những mục đích thiêng liêng cao
quí nhưng hình ảnh hiếm thấy của cô vũ nữ xinh đẹp đã dám xả thân vì niềm tin
của mình đã khơi dậy trí tưởng tượng của Tagore đã khiến cho ông sáng tác ra
một trong những kiệt tác. Không chỉ câu chuyện về đức hy sinh của cô vũ nữ, nền
tảng về tôn giáo xã hội và chính trị của câu chuyện xảy ra trong giai đoạn ra
đời của Đạo Phật cũng được nhà thơ phản ánh rất sinh động. Điều này đã khiến
cho vở kịch trở nên một kiệt tác, trở thành một biểu tượng cho tình yêu và lòng
ngưỡng mộ của Tagore đối với Đạo Phật.
Chandalika (năm
1933) cũng được dựa trên câu chuyện mang tính truyền thuyết về Sardulkarna-Avadana.
sau này, Tagore đã chuyển nó thành một vở vũ kịch cùng tên năm 1938.
Một lần trên đường từ Jetavana về, Vihar Bhishu
Ananda cảm thấy khát và xin nước từ một cô gái đẳng cấp thấp hèn tên là
Prakriti. Lúc đầu, cô gái không dám cho nước vì cô chỉ là một người cùng đinh
trong xã hội, Ananda thuyết phục cô rằng “Xin cô đừng tự coi rẻ mình như vậy
vì tự coi rẻ còn tội lỗi hơn cả tự sát... Tất cả mọi thứ nước đều có thể làm
cho người ta đã khát và sự trao cho người khác một thứ gì như vậy thật là một cử
chỉ tinh khiết”[19]. Thế là Prakriti bèn sung sướng mời
Ananda uống nước với lòng biết ơn và sự tự tôn về nhân phẩm của mình. Nàng tìm
kiếm sự giúp đỡ của mẹ mình và bùa ngải để đạt được tình yêu của Ananda nhưng
khi Ananda được đưa đến trước nàng trong tình trạng đờ đẫn mê man thì nàng tự
căm ghét mình và cầu xin mẹ lấy lại phép thuật của bùa ngải, quì xuống chân
Ananda trong tình yêu và sự hối lỗi. Trong câu chuyện ban đầu, Ananda được phép
lạ của Đức Phật cứu giúp nhưng trong vở kịch của mình, Tagore đã để cho nhân
vật Prakriti tự nhận ra lỗi lầm của mình, một kết thúc mang tính nhân văn và tự
nhiên hơn.
Sự nguyền
rủa của Tagore đối với hệ thống đẳng cấp và tình thương của ông đối với những
người cùng đinh trong xã hội vốn có gốc rễ sâu xa trong xã hội Ấn Độ thể hiện
rất rõ trong vở kịch này. Tagore không bao giờ ủng hộ bất kỳ một hình thức nào
của sự nô lệ dù là trong tôn giáo, chính trị hay xã hội. Khi mẹ của Prakriti
an ủi nàng rằng “Chúng ta là nô lệ ngay từ khi ra đời”, cô gái phản
kháng “Xin đừng sai lầm bằng cách tự hạ thấp mình như vậy, mẹ ơi! Một công
chúa có thể bị bắt làm nô lệ, một người Bàlamôn có thể lâm vào cảnh cùng đinh
nhưng con là Prakriti, không phải là nô lệ cũng chẳng phải là kẻ cùng đinh khốn
khổ!”[20] Chính Đạo Phật đã giữ gìn nhân phẩm
của con người và giải phóng con người thậm chí dù người đó ở đẳng cấp thấp
nhất. Đây chính là một trong những lý do mà Tagore luôn bị Đạo Phật lôi cuốn.
Phật giáo
cũng như là những văn bản của Upanishads đã lôi cuốn sự quan
tâm của Tagore. Các nghi lễ cũng như những hình ảnh và các tính cách trừu tượng
là sự quan tâm hàng đầu của những ý tưởng tôn giáo trong Kinh Veda.
Những mối quan hệ giữa con người và con người, những cảm xúc có tính con người
có tầm quan trọng ít hơn trong tác phẩm này. Tất cả những gì vĩ đại được bộc lộ
nơi con người như lòng tốt, lòng hy sinh đều nhuốm màu thần thánh bởi vì ở đây,
thần thánh và chúa trời được đặt ở vị trí cao hơn con người. Ngược lại, trong
Đạo Phật, mối quan hệ và tình cảm của con người được đặt cao hơn những nghi lễ
thần thánh. Mục đích của Đạo Phật là đánh thức sức mạnh của cái thiện, lòng
thương yêu, sự hy sinh và sự nhiệt tình nằm sâu trong trái tim con người.
Tagore nói :
“Ở Ấn Độ,
Đức Phật là con người chiến thắng. Ngài đã xoá bỏ tất cả những ngăn cách về
đẳng cấp, giải phóng con người khỏi những sự giả dối của những nghi lễ và xoá
bỏ hình ảnh của thánh thần khỏi tầm nhìn của con người. Ngài đã thuyết giảng về
sức mạnh nội tâm của con người. Bằng sự hy sinh và dâng hiến, Ngài đã tôn vinh
trí tuệ, sức mạnh và lòng nhiệt tình nằm trong trái tim của con người. Con
người không còn là một sinh vật yếu đuối đáng thương, phụ thuộc vào lòng thương
hại của các vị thánh thần mà là Chủ nhân của chính mình”[21].
Kết luận
Tagore nói: “Đối với
tôi, những lời văn của Upanishads và việc giảng giải của Đức Phật đều
là những kiệt tác về tinh thần và do đó, chúng mang đặc tính quan trọng khó mà
kể hết. Và tôi đã sử dụng chúng, cả trong cuộc sống riêng của mình lẫn trong
việc thuyết giảng văn học nghệ thuật... và cũng giống như những người khác, tôi
đang chờ đợi sự khẳng định của những nguyên lý đó, cùng với lời chứng của chính
tôi”[22].
Tagore nhìn
nhận Đạo Phật với cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Song qua phân tích
các tác phẩm của Tagore, ta có thể thấy tính cách của Đức Phật đặc biệt lôi
cuốn ông. Bên cạnh đó, việc Đạo Phật ghét cay ghét đắng các nghi thức tôn giáo
và hạt nhân cơ bản của nó về lòng vị tha “thương người như thể thương thân” là
hai nhân tố chính khiến Tagore yêu mến tôn giáo này vì trong nhân sinh quan của
ông, đây là hai yếu tố không thể thiếu của một con người có hiểu biết và có
nhân cách.
Tài liệu tham khảo
1. Agarwala,
R.S., Aesthetic Consciousness of Tagore, Santiniketan, 1996.
2. Chakraverty,
Bishweshwar, Tagore, The Dramatist, A Critical Study, B.R.
Publishing Corporation, Delhi, 2000.
3. Kripalani,
Krishna, Rabindranath Tagore: A Biography, New York, 1962.
4. Lago,
Mary, Rabindranath Tagore, Twayne Publishers, A division of G.K.
Hall & Co., Boston, America.
5. Naravane,
V.S., An Introduction to Rabindranath Tagore, Madras:
Macmillan, 1977.
6. Sahitya
Akademi, Rabindranath Tagore: A Centenary Volume, Delhi, 1961.
7. Thompson,
E.J., Rabindranath Tagore: His Life and Works, Calcutta, Y.M.C.A.
Phublishing Huose, 1921.
8. Visva
Bharathi Quarterly, April 1943.
C¸c t¸c phÈm cña
Tagore ®îc trÝch dÉn
Nh÷ng
t¸c phÈm nµy sau nµy ®· ®îc xuÊt b¶n l¹i t¹i Ên §é t¹i nhµ xuÊt b¶n
Rupa,7/6, Ansari Road, Daryagani, New Delhi vµ Sahitya Academi, Rabindra
Bhavan, 35, Ferozeshah Road, New Delhi.
9. Collected Poems and
Plays, New York, 1961.
10. Collected Poems and
Plays of Tagore, London, Macmillan, 1936.
11. Creative Unity, New York, 1922.
12. Gitanjali
(Song-Offerings), London, The India Society, 1912, Macmillan, 1913.
13. Personality, London, 1917.
14. Sacrifice and Other
Plays, New York, 1917.
15. Sadhana, The
Realisation of Life, New York, 1913.
16. The Cycle of Spring, New York, 1917
17. The Religion of
Man, New York, 1931 and London, Macmillan, 1931.
18. Three Plays, Marjorie Sykes,
trans. Bombay: Oxford University Press, 1950.
19. Towards Universal
Man, Bhabani Bhattacharya, trans. and ed., New York, Asian Publshing
House, 1961.
20. vµ c¸c
t¸c phÈm trÝch ra trong tËp The English Writings of Rabindranath Tagore,
1996, tËp I, II, III do Sisir Kumar Das biªn so¹n, Sahitya Academi
Edition, New Delhi, India.
[10] Edward Thompson, dạy môn văn chương
Bengali tại Bengal và Oxford, tác giả cuốn sách Rabindranath Tagore:
His Life and Work (Calcutta, 1921)
[11] Tập thơ Parisesh viết bằng tiếng Pali
năm 1887, dịch ra Anh ngữ và xuất bản tại London năm 1932.
PGS. TS. Đỗ Thu Hà ĐH Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét