Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

DUY TUỆ THỊ NGHIỆP


                                                      Chánh văn:
                                   
八大人覺經 Bát Đi Nhân Giác Kinh
                                       
弟三覺知 Đ tam giác tri
                                               心無厭足 Tâm vô ym túc
                                          
唯得多求 Duy đc đa cu
                                          
增長罪惡 Tăng trưởng ti ác
                                          
菩薩不爾 B tát bt nhĩ
                                          
常念知足 Thường nim tri túc
                                          
安貧守道 An bn th đo
                                          
唯慧是業 Duy tu th nghiệp

                               Nghĩa là :
                                        Tâm nếu không biết đ,
                                        Ch lo vic tham cu,
                                        S tăng thêm ti ác.
                                        B tát không như vy,
                                        Thường nh đến biết đ,
                                        Vui cnh nghèo gi đo,
                                        Ly tu làm s nghip.
     Câu “Duy tuệ thị nghiệp” có xuất xứ từ kinh Bát Đại Nhân Giác(tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, tức của Phật, Bồ tát…). Kinh do ngài An Thế Cao dịch năm 148, đời Hán Hoàn đế (Hậu Hán), đượ đưa vào Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, số 779. Câu này thuộc điều giác ngộ thứ 3, nguyên văn chữ Hán như sau: Tâm vô yểm tức, duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác; Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần lạc đạo, duy tuệ thị nghiệp. (Tâm than không chán,  cứ mong được nhiều, tăng trưởng tội ác, Bồ tát chẳng vậy, thường nghĩ biết đủ, chỉ tuệ là nghiệp); ý nói Bồ tát an nhiên trong thanh bần, vui với đạo, chỉ lấy việc vun bồi phát triển trí tuệ làm sự nghiệp của mình. Từ Nghiệp trong câu trên nên được hiểu một cách đơn giản là sự nghiệp, là công sức xây dựng để được kết quả như ý. “Duy tuệ thị nghiệp”được hiểu như là một châm ngôn, một khẩu hiệu, đề cao sự phát triển trí tuệ để từ đó đạt được trí tuệ tuyệt đối hoàn hảo của chư Phật.
    Trong khuôn khổ hạn chế của chuyên mục, chúng tôi xin trình bày vắn tắt nhưng căn bản  về Tuệ và Nghiệp:
    Tuệ (Prajna, Panna) hay bát nhã, trí tuệ, minh,…là cái biết về lý , sự của hết thảy các pháp, khi tiến đến chỗ rốt ráo, trọn vẹn thì đó là Phật trí, hay Nhất thiết chủng trí của chư Phật, Tuệ hay Bát nhã Ba la mật (sự hoàn hảo của Tuệ là trí tuệ của Bồ tát. Trí tuệ này không giống  như sự thông minh, hiểu biết hay khả năng quán chiếu và thấy đúng  thực tướng của các pháp, nó là không, không chướng ngại, xa rời mọi điên đảo, thẳng đến Niết bàn rốt ráo (xem Bát Nhã Ba la mật đa Tâm kinh). Trong 6 Ba la mật (6 sự toàn hảo), trí tuệ Ba la mật được xem là quan trọng nhất, là mẹ của chư Phật (vì chính từ trí tuệ này mà phát sinh Nhất thiết chủng trí của chư Phật).
    Bát nhã Ba la mật là trí tuệ của Bồ tát như đã nói, nhưng vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tính cho nên cái biết của chúng sanh cũng là cơ sở để biến thành tuệ của Bồ tát, rồi thành Phật trí, do đó mà nhiều kinh sách cũng đã phân biệt nhiều loại trí tuệ. Đó là: 1) Nhất thiết trí, tức trí biết rõ tổng tướng của các pháp (không tướng), đây là trí của hàng Thanh văn, Duyên giác; 2) Đạo chủng trí, tức trí biết rõ biệt tướng của các pháp , đây là tri của hàng Bồ Tát, và 3) Nhất thiết chủng trí, tức trí thông đạt tổng tướng và biệt tướng của các pháp, đây là trí của chư Phật. Ngoài ra còn nhiều phân biệt khác nữa vế các loại tri: cộng Bát nhã và trí chung của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Bất cộng Bát nhã là trí của Bồ tát; Thế gian trí là trí của thế gian còn gọi là phương tiện Bát nhã hay Văn tự Bát nhã (do học kinh điển mà có) và Bát nhã tức là trí tuyệt đối (do tu mà có); Thật tướng Bát nhã (trí tuyệt đối vốn có của chúng sanh) và Quán chiếu Bát nhã là trí quán chiếu đối cảnh mà tìm sự chân thật; thế gian trí của phàm phu, Xuất thế gian trí của Thanh văn, Duyên giác và Xuất thế gian Thượng trí của Phật và Bồ tát; Văn tuệ, tức tuệ do nghe kinh điển mà có, Tư tuệ  do tư duy mà có và Tu tuệ, tức tuệ do tu mà có.
ghiệp (Karma ha Kamma) là kết quả của những hành động có tác ý . Đó là những tác thành của hành động, lời nói và ý nghĩ (thân, khẩu, ý). Nếu kết hợp với quan hệ nhân quả thì nghiệp là năng lực do những hành vi trong quá khứ (của đời này và các đời trước). Một cách khái quát, ta phân biệt thiện, nghiệp và ác nghiệp, từ đó sinh ra các quả báo tốt (thiện), và quả báo xấu (ác)…Do đó, nếu ta thực hiện học tập, vun trồng trí tuệ, tức là ta gây thiện nghiệp và sẽ đạt thiện quả và trí tuệ của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, và cuối cùng là Nhất thiết chủng trí của chư Phật. Trong nghĩa hẹp và rất cụ thể, như đã nói, những gì ta tạo tác xây dựng trong đời ta với ý hướng tốt đẹp thì đấy là sự thực hiện nghề nghiệp tốt, sự nghiệp tốt hay thiện nghiệp; đây chính là ý nghĩa căn bản của từ Nghiệp trong câu “ Duy tuệ thị nghiệp”vậy.

              http://tapchivanhoaphatgiao.com/blog/hoi-dap/hoi-dap-duy-tue-thi-nghiep.html

 
  

Không có nhận xét nào: