Từ ngàn xưa, con người đã hằng nung nấu, ôm ấp ước mơ được trường sinh bất tử.
Tuy nhiên, sự bất tử trường sinh dường như chỉ thấy có được trong những câu
chuyện thần thoại hoang đường, hay truyền thuyết mơ hồ viễn vông.
Trường sinh, sống lâu sống thọ, sống dài dài nhưng hữu hạn chứ không phải vô
hạn bất cùng, thì có. Bất tử, hiểu theo nghĩa đen là không bao giờ chết, thì
không. Sau, quan niệm bất tử đã được suy nghĩ và thay đổi lại, con người không
thể không chết đi, không thể tồn tại mãi với thời gian vùn vụt trôi và không
gian đầy ô nhiễm bụi bặm, vì vậy “đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có
danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Để lại tiếng thơm, để lại một công
trình, để lại chiến công oanh liệt vẻ vang, hay để lại một tinh thần bất khuất
quả cảm… đó là một cách để bất tử với nhân quần xã hội. Còn trường sinh? Tần
Thuỷ Hoàng, hay Từ Hy Thái Hậu, đều đã từng ôm mộng trường sinh của bậc bạo
chúa mà mang theo về cõi cát bụi hư vô. Phương Đông có thuật Yoga (Du Già
thuyết) ở Ấn Độ, có phương pháp Thiền định (Zen) phối hợp với gạo lứt muối mè
theo cách thức “nhai thức uống, uống thức ăn” ở Nhật Bản… đã mang lại
những thành công tương đối trong cuộc kiếm tìm trường sinh đại thọ cho con
người. Nhưng các thuật trường sinh đầy công phu, đòi hỏi sự quyết tâm và kiên
trì ấy, đều phải phối hợp với rất nhiều yếu tố khác, bao gồm cả ở nội tâm lẫn
ngoại cảnh, nếu thiếu đi một yếu tố ắt xôi hỏng bỏng không, uổng phí một công
phu tu luyện.
Với nhà Phật, giáo lý siêu việt của Đức Thích Ca Mâu Ni luôn chú trọng về nhân
quả báo ứng, về nghiệp duyên luân hồi, cho nên sẽ không có những phương pháp
chỉ dạy cho chúng sinh lao theo những cuộc tìm kiếm vô vọng sự bất tử trường
sinh ở trần gian tạp uế; mà chỉ có con đường Chánh đạo dẫn cho con người tìm
đến với an vui thanh thản, với siêu thoát thường hằng. Làm sao con người bất tử
được khi duyên nghiệp kiếp này của mình đã dứt? Làm sao trường sinh được khi
“cái số” của mình là… mệnh yểu? Làm sao sống lâu hơn trăm tuổi để hưởng thụ
cuộc sống phú quý sướng vui, khi cái nghiệp ác của mình đã tạo tác từ kiếp này,
hay kiếp trước, đã đến hồi phải vay trả sòng phẳng? Hết duyên, hết nợ là dứt
sạch. Còn nợ còn duyên thì phải lo mà trả cho đầy đủ, dù đang có một cuộc sống
bần cùng cực khổ, hay đang thọ hưởng một cuộc sống nhung lụa cao sang, rồi muốn
đi đâu thì đi!
Giáo lý nhà Phật chỉ cho con người phương pháp đoạn trừ phiền não, dứt lìa khổ
đau, liễu sinh thoát tử tìm đến an nhiên cực lạc qua mỗi bước chân hùng lực
không rời Bát Chánh Đạo. Trường sinh bất tử có chăng thì cũng chỉ hiện hữu tồn
tại ở một cõi siêu thoát vĩnh hằng vượt khỏi vòng luân hồi (Niết Bàn), cõi bất
sinh bất diệt, mà chỉ bậc giác ngộ chân tu mới chứng đắc được tận cùng rốt ráo.
Giáo lý nhà Phật không phán bảo khuyên răn con người phải lưu luyến tiếc nuối
một kiếp sống đầy khổ luỵ bi ai với đủ tử biệt sinh ly thất tình lục dục ở cõi
trần gian giả tạm vọng ảo. Pháp Phật chỉ hướng dẫn cho chúng sinh đang còn ngụp
lặn trong bể khổ trầm luân cách thức tu hành để tự mỗi người giải thoát cho
mình, và nếu thuận duyên thì cho cả tha nhân, được thoát ly sanh tử ngay cuộc
sống hiện tiền bằng cách nỗ lực tu tập, tinh tấn thực hành những giới hạnh oai
nghi và công năng thiện lành. Tu là chuyển nghiệp, chúng sinh có thể chuyển
được cái nghiệp của mình, làm cho nhân quả báo ứng có thể sẽ xảy đến với mình
trong kiếp sống này được hoá giải, được tiêu tan, hay được thay đổi qua đầy vơi
dầy mỏng ít nhiều tròn méo… bằng chính sự tĩnh tâm tu niệm, nhất tâm hành trì,
thành tâm sám hối của chính mình. Hoà thượng Thích Quảng Đức không phải
đã để lại nhân thế này một trái tim bất tử đó sao? Các vị Hoà thượng, Tăng Ni
và Phật tử đã vị pháp thiêu thân, bảo vệ Hiến Chương trong các thời kỳ Pháp
nạn, hoặc để cầu nguyện Hoà Bình, như: Thích Tiêu Diêu, Thích Quảng Hương,
Thích Nữ Diệu Quang, Đoàn Thị Yến Phi, Nhất Chi Mai, Quách Thị Trang… vân vân
và vân vân… há chẳng phải là những con người đã đạt được bất tử đó sao? Xem cái
chết nhẹ tựa lông hồng, chộp bắt được sự bất tử ngay trong cửa tử!
Vậy còn trường sinh? Xin kể sơ lược nơi đây tiểu sử và cuộc
đời hành đạo của một vài vị danh tăng Việt Nam hiếm hoi đã “đắc” được trường
sinh đại thọ, để chúng ta cùng gẫm suy những điều kỳ diệu diễn ra ngay trong
cuộc sống, cũng như để học hỏi noi gương những đạo hạnh cao quý có thể mang lại
cho con người những tháng ngày tự tại vô ngại trước sinh tử luân hồi. Xin kể
đến chư vị cao tăng nước nhà đã sống trên 100 năm, con số bách niên mơ ước của
rất nhiều người.
Trước tiên, xin nói đến vị “Danh tăng trường thọ” có lẽ sống lâu nhất trong
lịch sử Phật giáo nước ta cho đến thời điểm này: Đại lão Hoà thượng
Thích Đạt Thanh, pháp hiệu Như Bửu, thế danh Võ Minh Thông.
Sư xuất thân trong một gia đình quy ngưỡng tôn kính Phật Pháp, được sinh ra vào
năm 1853, dưới triều Tự Đức năm thứ 6, tại phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là
huyện Hóc Môn-TP. Hồ Chí Minh). Theo lời song thân của Sư kể lại, ngày mà Sư
chào đời bỗng dưng có một đàn bồ câu không rõ xuất xứ ở đâu bay lại đậu kín
trên mái nhà, con gáy con gù, con nhảy con nhót như đang hoan ca hoan hỷ. Cho
đó là điềm báo an lành linh thiêng, song thân Sư liền thiết lập bàn thờ Phật,
phát nguyện ăn chay trường, trì kinh niệm chú. Thông minh hiếu học từ thuở nhỏ,
Sư đã không chỉ thông làu kinh điển mà còn tinh thông xuất sắc cả võ nghệ,
nhưng lại luôn tỏ ra rất khiêm tốn nhún nhường. Năm 12 tuổi, Sư được cha mẹ
đồng thuận cho xuất gia học đạo với Tổ Minh Phương- Chơn Hương ở chùa Linh
Nguyên. Qua 2 năm tu học tinh cần, Sư được sư phụ đưa sang tu học thêm kinh
điển với Tổ Minh Vi-Mật Hạnh tại chùa Giác Lâm. Rồi thời gian dài tiếp sau đó,
Sư đã được nhiều phước duyên thọ giáo với chư vị Hoà Thượng giáo thọ danh tiếng
uyên thâm và đạo hạnh, nên sớm trở thành một tăng nhân nổi tiếng trong Thiền
lâm đương thời. Từ năm 1879, Sư được tôn cử làm trụ trì các chùa Linh Nguyên,
Long Quang. Năm 1926, Sư tham gia tổ chức yêu nước Thiên Địa Hội chống chế độ
cai trị của thực dân Pháp, bị bắt đày đi Côn Đảo. Sống khổ sai trong địa ngục
trần gian suốt 4 năm trời, như đã sống trong cõi chết, vậy mà Sư vẫn mặc áo nâu
sồng, giữ trai tịnh với cơm muối nước lã, không để suy suyễn hao hụt oai nghi
đạo hạnh của người xuất gia đầu Phật. Từ công việc nặng nhọc đốn củi đốt than
trên rừng, Sư đã cùng một số bạn tù kết bè vượt ngục, trôi nổi giữa biển khơi
mênh mông, đương đầu với sóng to gió lớn, bảy chết còn ba, hai bạn tù còn lại
bên Sư thì ngoi ngóp nhắm mắt chờ chết, chỉ riêng Sư là còn tỉnh táo, định tâm.
Ngồi trên bè với tư thế bán già, Sư đã nhất tâm trì niệm kinh chú qua một thời
khắc sinh tử tồn vong chỉ cách nhau một sợi chỉ. Vậy rồi, sóng chìm gió lặng,
bè trôi bềnh bồng lặng lẽ ba ngày hai đêm giữa mênh mông biển nước, cho đến khi
được một chiếc thuyền buôn xuất hiện cứu vớt. Nhân duyên đã đưa đẩy một thương
gia ở Rạch Giá có mặt trên thuyền buôn, vốn là một phật tử thuần thành đã đưa
Sư về nhà của ông, chăm sóc bảo bọc ân cần chu đáo, làm giấy tờ giả để qua mắt
nhà cầm quyền Pháp, đổi tên cho Sư là Võ Bửu Đạt. Từ đó, Sư không dám về quê
xưa chùa cũ, mà ngao du giáo hoá khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ với tấm căn cước
mang tên mới, rồi từ năm 1949 chính thức về Sài Gòn khi án tù vượt ngục không
còn hiệu lực. Như một du tăng khứ đáo tự tại, Sư đã đến và đi qua rất nhiều
ngôi chùa ở Sài Gòn, sau cùng mới dừng chân lại làm trụ trì chùa Giác Ngộ ở Ngã
Sáu Vườn Lài. Đến năm 1951, là một bậc cao tăng được giới Tăng già hết mực tôn
kính, nên ngôi vị Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đã trao cho Sư đảm nhiệm.
Giữ ngôi vị Pháp Chủ được 3 năm, thấy sức khoẻ suy yếu, Sư làm Chứng minh Đạo
sư của Giáo Hội Tăng Già, xin cáo lui để về an dưỡng tại chùa Long Quang, mở
cuộc trùng tu ngôi chùa này thành một cõi già lam trang nghiêm. Từ năm 1956 đến
năm 1972, tạm rời vùng Bà Điểm –Hóc Môn để tranh bom đạn, Sư được cung thỉnh
đến trụ trì ngôi chùa mới Long Nguyên sau đến an trú ở chùa Chưởng Thánh, rồi
lại trở về chùa Long Quang khi sức khoẻ ngày càng như ngọn đèn cạn dầu, mặc dù
tinh thần vẫn còn sáng suốt, trí tuệ vẫn minh mẫn… Đúng vào sáng mồng Một
Tết Quý Sửu 1973, sau khi lên chánh điện lễ bái chư Phật, Sư bảo môn đồ
kê một chiếc đơn bên cạnh bàn thờ Tổ, rồi nằm đó qua 11 ngày chỉ uống nước. Đến
sáng ngày 11 tháng Giêng, Sư tắm rửa nước nấu bằng các loại hoa thơm, rồi sai
thông báo cho tất cả các đê tử ở khắp nơi trở về để phụng giáo. Đúng 12 giờ
trưa ngày 12 tháng Giêng, môn đồ pháp chúng tề tựu đông đủ, Sư thuyết
giảng một bài về lẽ vô thường, căn dặn không ai được sầu bi khóc lóc, rồi đọc
một bài kệ 8 câu cho chúng đệ tử nghe. Sau đó, Sư bảo môn đồ tập trung
lên chánh điện tọa thiền, đánh trống Bát Nhã liên hồi từ 15 giờ 30 đến 16
giờ thì Sư thâu thần thị tịch, trên tay vẫn còn nắm một xâu chuỗi mười tám hạt
bồ đề, hưởng đại thọ 120 tuổi, với 99 tuổi đạo.
Một vị cao tăng khác cũng sống trên 100 tuổi, đó là Đại lão Hoà
thượng Thích Trừng Văn, pháp hiệu Giác Nguyên, sinh
vào năm 1877. Sư có thế danh là Đặng Văn Ngộ, quê quán ở Tuy Phước, tỉnh Bình
Định. Với hoàn cảnh đặc biệt, lên 6 tuổi đã mồ côi cha mẹ, Sư được một quan
Thái giám nhận làm dưỡng tử, và cho xuất gia quy y với Hoà thượng Tâm Tịnh tại
chùa Từ Hiếu- Huế. Qua 5 năm tinh tấn tu học, thông làu kinh điển, Sư được Sư
phụ xem như là Trưởng tử, cho thọ giới Sa di. Năm 1903, Sư rời chùa Từ Hiếu
theo hầu sư phụ, đến tu ở thảo am Thiếu Lâm trên ngọn đồi phía Nam đàn
Nam Giao. Khi 33 tuổi, Sư được thọ Cụ túc giới, đắc pháp với pháp hiệu là Giác
Nguyên, và được tăng chúng suy tôn làm Thủ toạ chùa Tây Thiên. Khi Hoà thượng
Tâm Tịnh viên tịch, Sư được suy cử làm trụ trì chùa này, nổi tiếng là một bậc
cao tăng thanh tịnh khiêm cung, rất đông Phật tử xin cầu học thọ giới. Sư đã
dành nhiều tâm huyết và đại nguyện để trùng tu ngôi chùa Tây Thiên trở thành
một ngôi tự viện danh tiếng với công trình xây dựng một tượng đức Phật A Di Đà
oai nghiêm lộng lẫy. Đến năm 1926, chùa được chính vua Bảo Đại ban sắc hiệu là
“Sắc Tứ Tây Thiên Di Đà Tự”. Sau, Sư cùng chư tăng đạo hạnh thành lập trường
Cao đẳng Phật học để đào tạo Tăng tài phung sự Phật giáo, giáo hoá chúng sinh.
Vào thời kỳ Pháp nạn (năm 1963-1966), Sư đã cùng chư vị cao tăng
xuống đường tuyệt thực để chỉ đạo cuộc đấu tranh bất bạo động, đòi quyền bình
đẳng tôn giáo, chống chế độ gia đình trị họ Ngô, cũng như các chính quyền sau
đó. Đã nhiều lần môn đồ pháp chúng định tổ chức lễ mừng Sư thượng thọ, nhưng Sư
đã chối từ, và luôn răn dạy: “Hãy dùng tiền đó để đúc tượng, sửa chùa, bố
thí cho người nghèo dân khổ!”. Đúng 01 giờ sáng mồng Một Tết Nguyên Đán
năm Canh Thân (nhằm 16 tháng 2 năm 1980), Sư thản nhiên viên tịch, thọ 103
tuổi, với 70 hạ lạp.
Một vị cao tăng nổi tiếng khác, cũng sinh vào
năm 1877, cùng tuổi và cũng chính là pháp đệ của Hoà thượng Trừng Văn, đó là Đại
lão Hoà Thượng Thích Trừng Thuỷ, pháp
danh Giác Nhiên, thế danh Võ Chí Thâm. Sư xuất thân từ một
gia đình gia phong đức hạnh ở Triệu Phong- Quảng Trị. Năm lên 7 tuổi, đã xin
quy y cầu pháp với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên Di Đà (Huế). Năm 55
tuổi, Sư cùng chư Tăng uyên bác và đạo hạnh lập nên Hội An Nam Phật Học, đảm
nhiệm chức Chứng minh Đạo sư, kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên-Huế,
rồi trú trì chùa Thánh Duyên, đứng ra Chứng minh cho tạp chí Viên Âm ra đời.
Sau đó, Sư được suy cử làm trú trì Tổ đình Thuyền Tôn-Huế, Viện trưởng Phật học
Viện Trung phần -Nha Trang. Đến lúc tuổi đã 86, chân yếu tay run, nhưng gặp
Pháp nạn 1963, Sư vẫn hiên ngang chống gậy trúc dẫn đầu đoàn Tăng Ni xuống
đường đòi bình đẳng tôn giáo, bảo vệ Chánh Pháp. Đặc biệt nhất, vào năm 1973,
Sư được suy tôn chức Đệ Nhị Tăng Thống của Giáo hội
PGVNTN… Sau năm 1975, Sư về lại chùa Thuyền Tôn tiếp hướng dẫn đồ chúng tu tập.
Vào ngày 02 tháng 2 năm 1979, Sư an nhiên viên tịch, hưởng thọ 102
tuổi đời, với 69 hạ lạp.
Xem ra, chúng ta thấy các Sư “đắc” được trường sinh đại thọ không phải vì các
Sư đã chú tâm lập chí đi tìm, cũng không phải vì các Sư nhờ đã tu luyện thần
thông nên nắm được “bí quyết sống lâu”, hay vì các Sư đã được Tây Vương Mẫu
trên cõi trời cao ban xuống cho mấy trái đào tiên để “thọ thực trường sinh”, mà
chỉ vì các Sư “chuyển được nghiệp, đổi được duyên” của mình bằng cuộc sống y áo
bình dị, muối tương thanh bần, cơm rau đạm bạc, vô ngã vị tha, kính thờ Tam
Bảo, y giáo phụng hành. Đến khi không muốn “sinh trụ” nữa, thì đón lấy
“hoại diệt” một cách bình thản an nhiên, nhiều khi các Sư còn thấy trước được
ngày giờ mình ra đi, thăng khỏi cõi phàm trần uế tạp, nên đã có dư thời giờ sắp
xếp nghênh đón giây phút tiêu diêu thiêng liêng ấy.
Vậy cho nên, đã thấy biết rõ vô thường, thấu hiểu duyên khởi duyên sinh, thì
chuyện trường sinh hay đoản thọ, bất tử hay mệnh yểu đối với nhà Phật có lẽ là…
thôi, bất khả tư nghị, miễn bàn.
TÂM KHÔNG – VĨNH HỮU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét