Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt
vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ
Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ
Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong
bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô
chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét
cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có
con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu
hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì
anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế
nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây
phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh
nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời
này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.
Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ
nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật
giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật
giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội
tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát,
suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ
Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp
với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học
hiện đại”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật
giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô
thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì
là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm
thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này? Hạnh phúc nằm
ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem
đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa: mọi sự mọi vật đều tương quan
lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải
tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như
vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không!
Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có
cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng
không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh.
Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết: những luật đó
có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời
sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên
đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm
chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản
chất của cuộc đời để hiểu chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu
Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường,
dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là
nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu? Phải
chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối
nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất? Từ đó,
Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn
là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho
người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt
lên, “thoát” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì
nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây
phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân
bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để
vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách
nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh
thần khoa học. Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ
khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám
phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con
người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “Những vấn đề
của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác,
hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ
không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của
ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang
theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một
cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ
túc cho “cách mạng ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa
học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá
nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng
những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh
nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm:
khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con
người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong
các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não
bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương
pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền
định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú
thực: bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không hiểu
làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt 49 ngày. Bây
giờ thì tôi hiểu: mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm linh mà ta không
ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này - cuộc hành trình
của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học,
có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà
thôi hay không? Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng
không nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế trong
một vấn đề nữa thôi: đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những
mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán
và ra lệnh: mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm
tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một
người khác giải tội với Trên Cao? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ
cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt
nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì
khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui.
Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ.
Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu: đó là
năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ nhàng đến đó.
Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn
đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là
hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh
con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra
khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú
vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương
đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên.
Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái gì con người cũng làm
được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc
lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ
hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con
người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con
người. Các tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện
không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây
cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới
với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.
Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực: vấn đề
môi trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm
tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện
đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba,
trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
Trích: HÃY BAY VỚI HAI CÁNH VÀO HIỆN ĐẠI
Cao Huy Thuần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét