Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

HAI ANH EM ĐI TÌM ĐẠO, NHƯNG CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI ĐẮC ĐƯỢC, TẠI VÌ SAO?


Lão Tử từng nói: “Khi bậc thượng sỹ nghe Đạo, họ sẽ chăm chỉ thực hành tu luyện, trung sỹ nghe Đạo, họ tu luyện lúc có lúc không”. Câu chuyện hai anh em tìm Đạo sẽ lý giải vì sao một người đắc Đạo, còn người kia thì không.

Trước đây rất lâu, có hai anh em nhà kia, vẫn luôn mong muốn tìm được Phật Pháp để tu luyện, thoát khỏi bể khổ luân hồi. Tuy nhiên, vì họ đang sống cùng cha mẹ già yếu và một cô em gái, hơn nữa người anh trai đã có vợ và một đứa con, nhưng người vợ lại đang mang trọng bệnh. Vì thế, họ không thể theo đuổi con đường tu Đạo.

Một ngày, hai anh em vô tình gặp được một cao nhân, và ngỏ ý muốn được ông ấy thu cả hai làm đồ đệ. Họ nói với vị cao nhân về những khó khăn mà họ đang gặp phải. Cao nhân đưa hai tay vào thế hợp thập (một hình thức chào hỏi), nhắm mắt lại, và lẩm nhẩm:http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

“Được và mất, được và mất. Nếu hai người không muốn từ bỏ bất cứ điều gì, vậy làm sao mới có thể đắc Đạo được? Không ai trong số các ngươi có ngộ tính tốt, vậy ta sẽ trở lại sau 10 năm nữa”. Nói rồi vị thiền sư bỏ đi thẳng.

Người anh trai lập tức nhận ra tầm quan trọng của việc tu Đạo, nghĩ rằng cần xả bỏ mọi thứ mới có thể tìm được chân Đạo chân Pháp, nên quyết định bỏ lại tất cả, mang theo hành lý rồi rời đi.

Còn người em trai, nhìn thấy cha mẹ già cùng chị dâu đang đau ốm, cảm thấy không đành lòng, nên quyết định ở lại, nghĩ rằng dù thế nào cũng không thể bỏ rơi họ.

10 năm sau, người anh trai trở về nhà. Anh đã đọc thuộc được rất nhiều kinh điển, đi lại như thần, bàn chân không chạm đất. Người em trai thì trông già nua, kiệt sức, lưng đã còng và đi lại khó khăn.

Vị cao nhân lúc này cũng xuất hiện, và hỏi hai người đã làm được những gì trong suốt 10 năm qua.http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

Người anh trai cho biết anh đã đi chu du đến gần như mọi ngọn núi lớn, mỗi con sông dài, đi thăm nhiều ngôi chùa, đọc nhiều kinh sách, và đã ngộ được nhiều điều.

Người em trai buồn bã nói rằng trong 10 năm qua, anh lo chăm sóc cha mẹ già của mình cho đến khi họ qua đời, và chăm sóc chị dâu cho đến khi chị khỏe lại. Anh cũng chăm sóc đứa em gái cho đến khi nó lớn khôn và lập gia thất. Anh cảm thấy rất mệt mỏi trong suốt 10 năm qua, và rằng anh không có thời gian để tìm kiếm kinh điển tu tập. Anh cũng không nghĩ rằng mình sẽ hội đủ điều kiện để tu Đạo.

Cao nhân mỉm cười nhẹ nhàng và quyết định chọn người em trai làm đệ tử. Người anh không thể hiểu được quyết định của vị cao nhân và yêu cầu giải thích.

Cao nhân nói:

“Phật ở trong tâm, chứ không phải ở nơi núi cao sông lớn. Giữ vững được tâm từ bi còn tốt hơn nhiều so với việc đọc tụng được hết kinh điển trên đời. Người không thể từ bi, bao dung và có trách nhiệm với cả cha mẹ già của mình, vậy làm sao có thể cứu độ chúng sinh được đây? 

Ngươi đã từ bỏ mọi yếu tố cơ bản để có thể tu luyện mà lại đi tìm kiếm những điều hời hợt ở bên ngoài. Thật đáng tiếc, nhưng ngươi không có duyên với Phật!”.

Người anh trai nghe xong chỉ còn biết cúi đầu im lặng…


                                                           Tuệ Tâm, theo Vision Times

CẢNH ĐỜI

Kết quả hình ảnh cho đời


                     CẢNH ĐỜI

Xe đến tàu qua cảnh rộn ràng,
Cà phê gác nhỏ phút miên man.
Hàng rao lanh lảnh lời xuyên phố,
Nhạc trỗi du dương quán cách đàng.
Khấp khểnh đôi đường người sướng khổ,
Chông chênh vạn lối kẻ hèn sang.
Chiều mưa sáng nắng luôn thay đổi,
Phúc họa nghiệp duyên có phủ phàng?

                                      Minh Đạo


Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

10 CÂU NÓI THÂM THÚY CỦA NGƯỜI DO THÁI CÓ THỂ LÀM THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI BẠN



                               Nếu như không chịu học tập thì cho dù đi vạn dặm đường cũng chỉ là anh đưa thư. (Ảnh: Internet)



Người Do Thái được mệnh danh là người thông minh nhất thế giới. Rất nhiều tư tưởng, phương châm sống của họ luôn làm ta bất ngờ về sự thâm thúy, sâu sắc. 10 triết lý của họ dưới đây có thể giúp thay đổi cuộc đời bạn.

1.           Khi hàng xóm của bạn chơi đàn lúc hai giờ sáng, bạn cũng đừng nổi giận, mà bạn đợi đến bốn giờ sáng sang gọi họ dậy và nói: “Tôi rất ngưỡng mộ tài diễn tấu của anh”.

2. Trên đời có ba thứ mà không ai có thể cướp mất:
– Một là thức ăn đã vào dạ dày
– Hai là mơ ước ở trong lòng
– Ba là kiến thức đã học ở trong đầu.

3. Thời gian là đại sư chữa trị vết thương lòng, nhưng đó không phải là phương pháp giải quyết vấn đề tốt nhất.

4. Bạn bè thật sự thì không chỉ cùng nhau nói chuyện quên thời gian, mà ngay đến lúc không nói lời nào cũng không cảm thấy ngại ngùng.

5. Nếu như bạn chỉ đợi chờ, thì chuyện phát sinh chính là bạn sẽ già đi.

6. Nếu như không chịu học tập thì cho dù đi vạn dặm đường cũng chỉ là anh đưa thư.

7. Trên đời không có giới hạn rõ ràng của bi kịchhỷ kịch, nếu như bạn có khả năng đi ra từ bi kịch thì đó chính là hỷ kịch, còn nếu như bạn đắm chìm trong hỷ kịch thì đó chính là bi kịch.

8. Đất mềm làm ngựa khụy chân, còn lời ngon ngọt dễ làm người té ngã.

9. Biết nhận lỗichấp nhận sửa lỗi thì bao giờ cũng tốt hơn là không dám làm điều đó!

10. Một giọt nước vẩn đục sẽ làm một ly nước trong vẩn đục, một ly nước vẩn đục không vì một ly nước trong tồn tại mà nó trở thành trong.

                                                                                    Theo Ngaynayhttp://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

KHOA HỌC CUỐI CÙNG ĐÃ CHỨNG MINH ĐƯỢC SỰ TỒN TẠI CỦA KINH MẠCH


Khái niệm kinh mạch được nhắc đến nhiều trong Đông y và khí công, nhưng chưa có bằng chứng cụ thể nào chứng minh sự tồn tại của nó. Và mới đây các nhà khoa học Hàn Quốc cuối cùng đã tìm thấy những đường kinh mạch này.


                                   Các nhà khoa học Hàn Quốc đã tìm thấy các đường kinh mạch trong cơ thể chúng ta.

Nhiều thế kỷ trước, những người canh giữ trí tuệ cổ xưa và những người chữa bệnh ở một số nền y học cổ truyền trên thế giới đã có những am hiểu nhất định về một kênh dẫn năng lượng đặc biệt của cơ thể con người mà y học cổ truyền phương Đông vẫn hay nhắc đến – kinh mạch.

Như chúng ta đã biết mọi phản ứng hóa học trong tự nhiên đều dựa trên sự biến đổi của electron mang điện tích âm và hạt nhân mang điện tích dương. Do đó cơ thể con người cũng ổn định dựa trên sự cân bằng của các phản ứng hóa học hay nói cách khác là sự cân bằng âm-dương. Nhờ có sự cân bằng âm dương mà các hoạt động như ăn uống, đi lại, hít thở, suy nghĩ, thâm chí cảm giác được diễn ra một cách bình thường.

Kinh mạch hay các kênh năng lượng?



Các kênh năng lượng được gọi là “Sen” ở Thái Lan, “Nadis” ở Ấn Độ, “Kinh mạch” ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.

Hơn 2000 năm trước, các nên văn hóa cổ đại đã biết được sự tồn tại về các kênh năng lượng. Chúng được gọi là “Sen” ở Thái Lan, “Nadis” ở Ấn Độ, “Kinh mạch” ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, hay “kênh” ở Tây Tạng.http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg

Hệ thống này rất phức tạp, có nhiệm vụ quan trọng trong việc cân bằng âm dương cho cơ thể. Ở Ấn Độ, nơi mà y học cổ truyền khá phát triển, các thầy thuốc cho rằng có tất cả khoảng 72.000 Nadis chạy khắp cơ thể. Sự tắc nghẽn các dòng chảy năng lượng trong hệ thống này được cho là nguyên nhân gây bệnh.

Dựa trên lý thuyết này, một loạt các biện pháp chữa bệnh như châm cứu, bấm huyệt, massage, yoga, khí công được áp dụng với mục đích duy nhất là chấm dứt sự tắc nghẽn của các kênh năng lượng.

Trên thực tế dù chưa được khoa học chứng minh một cách rõ ràng nhưng các biện pháp trên đã mang lại những hiệu quả nhất định trong điều trị và rèn luyện sức khỏe.


                                                                  Đường đi của một kinh mạch trong Đông y.

Các nghiên cứu khoa học

Gần đây các nhà khoa học tại đại học Quốc gia Seoul, Hàn Quốc đã xác nhận sự tồn tại của kinh mạch, và gọi nó là “hệ thống dẫn truyền đặc biệt”. Họ phát hiện rằng hệ thống này có liên quan mật thiết đến hoạt động của tim.

Trước đây, nhà khoa học Triều Tiên Kim Bong-Han tuyên bố rằng ông đã tìm thấy những đường dẫn truyền lạ, rất nhỏ, nó cũng có dạng hình ống nằm ở bên trong và bên ngoài các mạch máu, mạch bạch huyết, cũng như nằm trên bề mặt của các cơ quan nội tạng và bên dưới lớp hạ bì. Ông tin rằng chúng là những đường kinh mạch được nói đến trong Đông y.
Các đường ống nói trên sau này được đặt tên là ống dẫn Bonghan hoặc kênh Bonghan.
Dưới sự phát triển của kính hiển vi điện tử và một số công cụ khác, các nhà khoa học đã phát hiện ra thành phần của dòng chảy trong các kênh năng lượng này là các hạt vật chất dưới dạng sóng điện từ của ánh sáng và những thông tin di truyền dưới dạng DNA.http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/BcKCN8.jpg
Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc tin rằng “hệ thống dẫn truyền đặc biệt” trên thực tế là một phần trong các nguyên lý về châm cứu đang được ứng dụng rộng rãi.

Để hiểu rõ hơn về y học phương Đông, các nhà khoa học đã thực hiện một thí nghiệm. Họ sử dụng kỹ thuật vi phẫu đặc biệt tiêm thuốc nhuộm vào “hệ thống dẫn truyền” này sau đó quan sát dưới kính hiển vi điện tử. Kết quả cho thấy những nơi được châm cứu thì sẽ xuất hiện dây mỏng nhuộm màu. Còn những nơi không được châm cứu thì hoàn toàn trong suốt. Điều này cho thấy hoạt động của hệ năng lượng này là có thật.

Nhiều người không tin vào khả năng hồi phục mọi loại bệnh của khí công. Họ cho rằng mỗi bệnh cần có một loại thuốc điều trị khác nhau. Điều này đúng với nhận thức của y học hiện đại. Nhưng nghiên cứu trên đã phát hiện rằng, quá trình kích thích các huyệt vị trong châm cứu đã làm tăng cường sự tổ hợp của các hạt vật chất và DNA giúp tạo ra “tế bào gốc”.
Tế bào gốc là tế bào nguyên thủy của tất cả các tế bào do đó chúng sẽ sửa chữa và phục hồi mọi loại tổn thương, bằng cách phát triển thành chính tể bào của cơ quan bị tổn thương. Tây y hiện cũng đang ứng dụng công nghệ “tế bào gốc” để ghép tạng.

Khí công và mối liên hệ với sức khỏe.

Như chúng ta đã biết, khí công là một môn tập luyện nhằm kích hoạt các kinh mạch trong cơ thể.

Cơ thể chúng ta cần sự cân bằng, cả Đông y và Tây y đều thống nhất điểm này. Rèn luyện khí công sẽ cung cấp một dòng chảy năng lượng cân bằng, không quá nhiều cũng không quá ít cho sức khỏe. Cân bằng là rất quan trọng. Phật gia quan niệm ăn đủ uống đủ và ít tư tâm. Đức Phật từng nói: “Trong tâm cân bằng vạn sự bình yên”.

Bạn có cảm thấy sự hài hòa và cân bằng trong cuộc sống nó giống như sự cân băng 2 nguồn năng lương âm – dương, 2 nguồn năng lượng đối lập và tương hỗ lẫn nhau trong vũ trụ.

Trong y học cổ truyền Ấn Độ, kinh mạch là hệ thống dẫn truyền lớn nhất, vi quan nhất so với các hệ dẫn truyền khác trong cơ thể như hệ thần kinh, động mạch, tĩnh mạch, bạch huyết… Kinh mạch có mặt khắp tất cả mọi ngóc ngách trong cơ thể giúp kết nối cơ thể chúng ta thành một khối. Bất cứ sự tắc nghẽn nào sẽ làm mất đi sự vẹn toàn của cơ thể dẫn đến các rối loạn tạo nên bệnh lý.

Thực hành khí công, Yoga và thiền định có tác dụng tăng cường lưu thông các hạt vật chất và DNA trong kinh mạch. Nếu bạn là người nhạy cảm khi tiếp xúc với các biện pháp này bạn có thể thấy một số bộ phận cơ thể mình như đầu, mặt, lòng bàn tay, bàn chân sẽ nóng lên. Đó chính là sự giải phóng các dòng chảy năng lượng trong kinh mạch.

Hoàng An, theo Uplift





Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

LÊN CHÙA



                          LÊN CHÙA

Nghiêng nghiêng vách đá phủ rêu đầy,
Đã đến chùa thiêng cảnh gió mây.
Ngoài ngõ mong manh mờ khói tỏa,
Trong nhà ấm áp thoảng trầm bay.
Thầy ngồi chỉ vật khai tâm lớn,
Con đứng nương lời nguyện trí dày.
Vắng lặng đài sen soi biển khổ,
Cơ duyên vạn nẻo có ơn nầy.

                                          Minh Đạo



BÀI TẬP YOGA GIÚP CHO MẮT KHỎE

 


                                                Ảnh: Healthisall. 

Tập yoga cho đôi mắt sẽ giúp bạn nhìn rõ hơn, giảm sự mỏi mắt và giúp thư giãn mắt.

Trang Netdoctor hướng dẫn bài tập đơn giản cho mắt. Bài tập này gồm các động tác hướng mắt nhìn trên - dưới, trái - phải; ngang và vòng tròn; nhìn tập trung vào một điểm, massage mắt. 
  
Buổi sáng:
- Nhìn lên và xuống 5 lần; sau đó nhắm mắt lại.
- Mở mắt ra, nhìn sang trái và phải 5 lần; sau đó nhắm mắt lại.
- Mở mắt ra, nhìn phía trên bên phải và phía dưới bên trái 5 lần; sau đó nhắm mắt lại.
- Mở mắt ra, nhìn phía trên bên trái và phía dưới bên phải 5 lần; sau đó nhắm mắt lại.
- Xoa lòng bàn tay vào nhau, tạo hơi ấm sau đó đặt lên mắt.
Ban ngày
- Ngồi trên ghế một cách thoải mái sau đó di chuyển mắt trên và dưới, trái và phải, ngang và vòng tròn. Hãy bắt đầu chậm và rồi tăng nhanh tốc độ.
- Sau đó nhắm mắt lại, xoa hai lòng bàn tay vào nhau đến khi chúng ấm. Bạn áp lòng bàn tay vào mí mắt, hơi ấm từ bàn tay sẽ truyền vào đôi mắt mệt mỏi của bạn giúp chúng được thư giãn.
- Lặp lại động tác trên 3 lần.
Buổi tối
- Nhắm mắt phải và dùng bàn tay phải che mắt, chạm nhẹ nhàng vào mí mắt. Sau đó, bạn hãy nháy mắt trái; massage mắt trái nhẹ nhàng nhằm giúp mắt phải không bị căng thẳng.
- Nếu muốn, bạn có thể massage phần trán để giúp giảm sự căng thẳng.
Trước khi đi ngủ (Trataka)
Trataka là động tác yoga lâu đời nhất dành cho đôi mắt. Nó rất đơn giản và có hiệu quả ngoạn mục giúp làm sạch mắt.
- Thắp một cây nến, sau đó ngồi bắt chéo chân một cách thoải mái, đưa ngọn nến đã thắp sáng ra phía trước mặt.
- Nhìn chăm chằm vào ngọn lửa cho đến khi bắt đầu chảy nước mắt.
- Nằm xuống và thư giãn trong 10 phút.
                                                                                   Phương Trang
 
 
 

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

AI CÓ THỂ THỞ GIÙM AI?


Hai ngàn sáu trăm năm trước, một nhà minh triết phương Đông – Đức Phật – bảo đừng vội tin, đến nếm thử đi rồi biết! Đến là thực hành. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình thực hành và tự mình cảm nhận. Không thể nhờ ai khác. Rồi Ngài vạch ra một con đường “thoát khổ” cho chúng sanh: « Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết-bàn »…

Có một con đường như vậy thật ư? Phật nói chắc là phải có rồi. Nói từ hồi bắt đầu dạy những bài học đầu tiên cho đến lúc sắp nhập Niết-bàn. Nói đi nói lại. Sợ người ta quên. Sợ người ta coi nhẹ, mải mê chạy theo những “hí luận” nọ kia… Đó là thiền Tứ niệm xứ (Satipathana), thân-thọ-tâm-pháp. Rồi hình như thấy Tứ niệm xứ hãy còn có vẻ phức tạp quá, Ngài giản lược vào Thân hành niệm, rồi lại giản lược lần nữa cho phổ cập đến tất cả mọi người:  Anapanasati (còn gọi là An-ban thủ ý, Nhập tức niệm + Xuất tức niệm) để ai ai cũng có thể tiếp cận mà thực hành con đường “giải thoát”, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào .

Ana là thở vào, Apana là thở ra và Sati là niệm, là nhớ, nghĩ. Nhớ nghĩ về sự thở vào thở ra. Chỉ có vậy thôi sao ? Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà “bất khả tư nghì”. Đừng vội tin. Đến nếm thử đi rồi biết.

“… Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là tu tập nhập tức xuất tức niệm?  Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài” hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài” Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngán” Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”… (Anapanasatisutta, Thích Minh Châu dịch).   
Tôi đến với Thiền khá trễ, gần tuổi 60. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc thiền, biết thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh… nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó huyền bí xa vời, dành riêng cho một giới nào đó, có phần mê tín dị đoan nữa nên “kính nhi viễn chi”.

Tôi là một thầy thuốc, một bác sĩ y khoa, tốt nghiệp gần nửa thế kỷ rồi, học cái khoa học thực nghiệm, nhiều năm làm ở khoa Cấp cứu bệnh viện rồi làm Giáo dục sức khỏe, tham gia giảng dạy, viết sách, báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa tôi vào bệnh viện để mổ sọ não vì tai biến. Từ lúc lơ mơ đến lúc tỉnh dây ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu kỳ thú! Khi bước đi được những bước đầu tiên lẫm đẫm như một em bé trên nền đất, tôi thấy quả là phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc và thấy tức cười. Tôi đó ư? Đồng nghiệp ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc. Phải đi tìm một con đường khác. Rồi tôi đọc lại thiền, đọc lại Tâm Kinh Bát-nhã “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ với tôi. Phải rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Phải thực hành thôi. Tôi vừa tìm hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để tìm kiếm. Thì ra có sẵn một con đường mà bấy lâu mình xa lạ. “ Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra….” Chỉ có vậy thôi sao? Tin được không? Tìm hiểu thấu đáo, thực hành “miên mật” thì quả là có cơ sở để tin.

Gần đây ngày càng nhiều nhà y sinh học, tâm lý học, hợp tác cùng các nhà sư, dùng những kỹ thuật mới như EEG, PET, fMRI…  hy vọng khám phá những “bí nhiệm” của Thiền thì “thiền” nở rộ như nấm gặp mưa, đến nỗi gây ra không ít hoang mang, ngờ vực! Thực ra, đưa kỹ thuật vào khảo sát thiền chỉ có thể thấy được một góc cạnh nào đó thôi, vì đằng sau còn biết bao điều “bất khả thuyết”!

Câu hỏi đặt ra là tại sao chọn hơi thở làm đối tượng thiền? Tại sao không chọn một đối tượng nào khác?  Thực ra, chọn đối tượng nào cũng tốt cả, đất nước gió lửa… gì cũng tốt cả, nhưng chọn hơi thở để thiền thì tốt hơn.

- Thở hữu thức. Hơi thở dễ thấy nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay trước mắt mình!  Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Mỗi phút thở cả chục lần nên dễ có cơ hội quán sát  hơn. Thở lúc mau lúc chậm. Lúc ngắn lúc dài. Lúc phì phò lúc êm dịu, luôn thay đổi.  Khi thở chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay, chẳng “làm phiền” ai!

- Thở vô thức. Lúc ngủ say vẫn thở. Trung khu hô hấp nằm ở hành não, cầu não, bên dưới và bên ngoài vỏ não. Thở không cần ta. Thở ở ngoài ta.

Thở là cầu nối giữa thân với tâm. Lúc sợ hãi, thở hổn hển. Lúc sảng khoái, thở lâng lâng. Lúc mệt, thở đứt hơi, lúc khỏe, thở khoan thai.  Thở luôn trong thì hiện tại, ở đây và bây giờ, không có thở của hôm qua hay của ngày mai.

Và, đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Lúc chào đời hít mạnh một hơi vào phổi để rồi khi lìa đời, thở hắt ra một cái: trả lại những gì mình đã vay mượn tạm!

Gần hai mươi năm nay, tôi đến với thiền Anapanasati bằng cách riêng của mình. Khi có dịp chia sẻ, trao đổi, tôi thường nêu 3 giai đoạn thiền tập từ kinh nghiệm bản thân:
                                                1) Thở bụng, 
                                                2) Chánh niệm hơi thở,
                                                3) Quán niệm hơi thở.
Thở bụng đúng cách đã có thể giúp cải thiện sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống; Chánh niệm hơi thở có thể đưa đến “diệt trừ khổ ưu” và Quán niệm hơi thở thì dẫn đến “thành tựu chánh trí”! 

1/. Thở bụng.


Nói đến thở, ta nghĩ ngay đến ngực. Thiệt ra, thở ở bụng chớ không phải ở ngực. Thở bụng (abdominal breathing) hay còn gọi là thở cơ hoành (diaphragmatic breathing) là cách thở sinh lý nhất. Nhìn một em bé ngủ say thì biết. Chỉ có bụng phình lên xẹp xuống. Nhìn con ếch, con thằn lằn thì biết.

Thiền tập Anapanasati nên bắt đầu bằng thở bụng. Có vị thiền sư nói về thiền. Thiền hả? Là phình xep, phình xẹp, phình xẹp… ! Dĩ nhiên ở giai đoạn thiền sâu hơn thì thậm chỉ không còn thấy “phình xẹp” gì nữa cả!

Phổi ta như một cái máy bơm, lồng ngực như cái xy-lanh (cylindre), cơ hoành là cơ hô hấp chính, như một cái pit-tông (piston) thụt lên thụt xuống ( giống bễ lò rèn). Cơ hoành có thể nhích lên xuống khoảng 7-8cm, mà mỗi 1cm đã hút vào hoặc đẩy ra 250ml không khí. Lúc bình thường cơ hoành chỉ cần nhích lên xuống 1,5cm là đủ… sống. Khi áp suất âm trong phổi thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không (0 = zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt.

Hô hấp thật sự không xảy ra ở phổi mà ở trong từng tế bào. Do vậy mà khi ta có cách nào đó điều chỉnh được lượng khí ra vào, hiệu ứng sẽ tác động đến từng tế bào riêng lẻ.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện kể chuyện trong lúc nằm chờ chết trên giường bệnh ở Pháp khi các bác sĩ Pháp lúc đó bảo ông chỉ còn có thể sống không quá hai năm, ông đã thực hành “thở bụng” sau khi tìm hiểu các phương pháp thở của khí công, dưỡng sinh, thiền, yoga của phương Đông và kết quả là ông đã sống thêm… 50 năm nữa và làm được rất nhiều việc có ích cho đời.





Tôi may mắn được ông truyền thụ trực tiếp do cùng làm việc chung ở Bô môn Tâm lý – Xã hội học ở trường Y nhưng cũng không dám tin, cho đến khi nằm bệnh mới thấy ừ nhỉ, sao không thử xem. Cùng lúc tôi cũng tham khảo thêm các đồng nghiệp phương Tây như Dean Ornish, Deepak Chopra đã đưa phương pháp thở bụng, thở cơ hoành vào các chương trình điều trị tim mạch, trị liệu toàn diện qua các nghiên cứu đối chứng nghiêm túc, đáng tin cậy về phương diện thống kê y học. 

2/. “Chánh niệm hơi thở”.



“… Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra…”

Niệm là nhớ, là nghĩ. Chánh niệm hơi thở là tâm ý chỉ “nhớ, nghĩ » đến hơi thở đang vào, đang ra chớ không để tâm ý đi lăng xăng nơi này nơi khác. Chỉ có vậy. Tưởng dễ mà không dễ. Tâm ý vốn khoái lang bang, lăng xăng trăm nghìn thứ, bay nhảy như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã) không ngưng nghỉ. Lúc thì lòng tham nổi lên, tính tính toan toan. “Một đời lận đận đo rồi đếm/ Mỏi gối người đi đứng lại ngồi!” (Bùi Giáng), lúc thì sân giận ào ào đến, rồi dằn vặt, rồi lo âu, nghi kỵ, ngờ vực, hoang mang… Tiêu tốn biết bao nhiêu năng lượng cho những chuyện vô bổ đó! Bộ não chỉ chiếm có 2% thể trọng mà tiêu hao Oxygen đến 25-30%, phần lớn cho những chuyện “nhảm nhí” vô bổ này. Nếu chánh niệm được vào hơi thở thì những thứ tham, sân, nghi, lăng xăng, bực dọc kia… sẽ âm thầm lặn đi rồi… biến mất!

Chánh niệm hơi thở nơi đây chính là “thiền chỉ” (samatha). “Chỉ” là ngưng. Ngưng sự lăng xăng của tâm ý. Ngưng sự bứt rứt của cơ thể.

Chánh niệm vào hơi thở cách nào? “Thở vô dài, biết thở vô dài. Thở ra dài, biết thở ra dài. Thở vô ngắn biết thở vô ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn”.  Chỉ có vậy. Chữ “biết” ở đây có thể gây hiểu lầm. “Biết” ở đây không phải là “biết” mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra, lúc dài lúc ngắn lúc sâu lúc cạn kia kìa. Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ) về sự thở, về hơi thở. Vỏ não ta có cái hay: vùng này được kích hoạt thì vùng khác tắt ngấm. Đã nghĩ tới điều này thì không thể cùng lúc nghĩ tới điều khác. Nhờ đó mà ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, tiêu tốn năng lượng vô ích! “Nhất tâm bất loạn” là vậy. Điều này dẫn tới  “diệt trừ khổ ưu”, giải thoát tâm vậy.
   
3/. “Quán niệm hơi thở”.


Quán niệm hơi thở chính là “thiền quán” (vipassana). “Quán” không còn là “dõi theo” hơi thở đơn thuần nữa mà đã có sự phân tích, soi sáng (quán chiếu) dưới nhiều góc cạnh khác nhau để nhìn cho ra những điều mà bình thường không “thấy biết”. Cái thấy biết bấy giờ đã vượt khỏi cái trình hiện, cái giả tướng bên ngoài để nhìn được cái thực tướng bên trong, bên bờ kia. Và cái thấy “như thực” đó đã làm cho Huệ Năng sửng sốt reo lên: Thì ra vậy! Không ngờ… không ngờ…

Vi, tiếp đầu ngữ có nghĩa là “một cách khác”, “một cách đặc biệt”, còn passana là “thấy”, là “biết”. Vipassana là thấy biết một cách khác, một cách đặc biệt! Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ có thể thấy cả mùa thu, thấy con nai vàng ngơ ngác, nhưng người có quán chiếu lại thấy sự vô thường, vô ngã, sự bất sinh bất diệt

Khi vào sâu trong định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Đó chính là quãng lặng ở cuối thì thở ra – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tĩnh, vì không tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu!  Đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là thở vào (trước thở vào cũng có nghĩa là sau thở ra). Có thể nói đến một phương pháp thiền “Pranasati” ở đây chăng, nghĩa là đặt “niệm” vào quãng lặng, và thực chất đến một lúc cũng không còn cả “niệm”! Những hành giả giàu kinh nghiệm cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà quãng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó sẽ không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người…

4/. Thiền tập: 

 “…đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt”….
Tìm một chỗ yên tĩnh để thiền tập thì tốt nhưng không nhất thiết phải dưới gốc cây hay ngôi nhà trống. Đó là nói cho các vị “Tỳ kheo”. Còn ta có thể ngồi ở một góc nào đó trong nhà cũng được.  Ngay chỗ ồn ào náo nhiệt, giữa chợ búa, bến xe, sân bay… vẫn có thể “thiền định” được. “Ngoài không dính mắc là thiền, trong không lay động là định” (Huệ Năng). Cũng không nhất thiết phải ngồi, không nhất thiết phải kiết già, bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng được, vì đi đứng nằm ngồi gì cũng phải… thở mà! Miễn là thoải mái, dễ chịu. Dù vậy, nếu ngồi tréo chân (kiết già, bán già) được thì tốt, giúp các cơ bắp thư giãn, đổi chiều co thắt.

Giữ lưng thẳng rất quan trọng. Ta dễ bị cong vẹo cột sống, đau thắt lưng, đau cột sống cổ nếu ngồi không đúng tư thế. Ngồi trước máy vi tính, lạy Phật… không đúng tư thế cũng sẽ bị đau thắt lưng, đau cột sống cổ như vậy.
Một yếu tố rất quyết định là thả lỏng toàn thân – như thả trôi theo dòng nước hay treo thân trên móc áo. Thả lỏng toàn thân là làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp xuống, bình bồng, không còn căng cứng nữa! Tiêu hao năng lượng cho trương lực cơ (tonus musculaire) rất cao (khoảng 40% Oxygen), nên thả lỏng là giúp giảm đáng kể tiêu hao năng lượng do căng cơ.

Trú niệm trước mặt là không để “niệm” chạy lăng xăng. Buộc nó lại bằng cách chánh niệm vào hơi thở. “Thở” đến đâu biết đến đó. “Dõi theo” hơi thở vào hơi thở ra đó thì tâm ý không buông lung nữa.  Từ từ thôi, đừng nóng vội. Thất bại thường do nóng vội. Cứ thoải mái. Đừng  đặt “chỉ tiêu kế hoạch” gì ở đây.

Khi cơ thể đã chùng xuống, khi tiêu hao năng lượng đã giảm một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ bớt nhu cầu phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn! Ăn ít mà vẫn đáp ứng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc. Các nghiên cứu trên sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn!

… Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài” hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài”…  Chỉ có vậy. Mà “bất khả tư nghị”.

Ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai? Cho nên chỉ có thể nương tựa vào chính mình thôi. “Duy ngã độc tôn” thôi vậy!

                “Trời cao đất rộng/ một mình tôi đi/ một mình tôi đi.
                Đời như vô tận/ một mình tôi về/ một mình tôi về… với tôi!”  
                                                                                (Trịnh Công Sơn).


                                                                                               (Phật đản, 2016).

                                                                                               Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc