"Tự do" là một thuật ngữ ngày nay thường nghe nói đến trong mọi lãnh
vực: xã hội, chính trị, luật pháp, tín ngưỡng, ngôn luận, truyền thông và cả
nghệ thuật. Thế nhưng đôi khi chúng ta cũng có thể tự hỏi tự do là gì, ý niệm
về sự tự do phát sinh từ lúc nào trong lịch sử tiến hóa của nhân loại? Dường
như trong các xã hội ngày nay ngày càng có khuynh hướng biến nó trở thành một
lý tưởng, một quyền hạn thiêng liêng, như vậy thì tự do thật sự là gì, phải
chăng là một thứ gì có thật?
Nêu lên thắc mắc trên đây cũng có thể tạo ra một chút ngạc nhiên cho một số
người, bởi vì đối với họ tự do là một thứ gì đó thật hết sức hiển nhiên, một
quyền hạn bất khả xâm phạm, bảo đảm quyền suy nghĩ và hành động của mỗi cá thể
và của các tập thể trong xã hội. Thật vậy trong xã hội ngày nay ý niệm về sự tự
do ngày càng trở thành một yếu tố vô cùng quan trọng - nếu không muốn nói là cả
một sự ám ảnh. Từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ mỗi quốc gia đến cộng
đồng thế giới, từ tín ngưỡng đến phi-tôn-giáo, từ độc tài đến phi-chính-phủ,
con người luôn tìm mọi cách để thực hiện và bảo vệ sự tự do đó và xem đấy như
là một nguồn hạnh phúc căn bản nhất của con người, thế nhưng đôi khi sự tự do
cũng bị biến thành một công cụ hay một lợi khí.
Chúng ta hãy thử dừng lại trước cuộc chạy đua tìm kiếm sự "tự do" đầy
phức tạp đó hầu tìm hiểu xem thật sự nó là gì? Dưới một góc nhìn nào đó đôi khi
sự tự do cũng đơn giản chỉ là một sự cảm nhận bên trong tâm thức con người, và
biết đâu cũng có thể chỉ là một ước mơ trước sự thật của cuộc sống và thân phận
con người? Dầu sao thì bài viết dưới đây cũng không hề mang tham vọng giải đáp
các thắc mắc phức tạp và tế nhị trên đây mà trước hết chỉ nêu lên một vài sự
nghịch lý và mâu thuẫn trên dòng tiến hóa của lịch sử con người. Sau đó bài
viết sẽ đưa ra quan điểm của Phật giáo về vấn đề này với hy vọng có thể mang
lại một vài góc nhìn mới hơn về sự tự do hầu giúp chúng ta nhìn lại mình và xã
hội chung quanh xem sự tự do là gì, có thật hay không, nó ở đâu, phải làm thế
nào để tìm thấy nó?
Một vài thiển kiến nêu lên trong bài viết - dù là mang tính cách lịch sử, khoa
học và triết học - cũng có thể gây ra một vài bất đồng chính kiến với người
đọc. Do đó nếu người đọc nghĩ rằng mình hiểu rõ tự do là gì và không thích tìm
hiểu thế nào là sự tự do qua các góc nhìn khác hơn thì xin đơn giản dừng lại
đây, vì ít ra đấy cũng là sự tự do của người đọc và quyền tối thiểu của người
cầm bút.
Chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu các về các thắc mắc nêu lên trên đây là "tự
do" phải chăng là một thứ gì đó có thật, và nếu có thật thì nó được khám
phá ra từ lúc nào trong lịch sử tiến hóa của nhân loại? Nó xuất hiện ở đâu,
trong nền văn minh nào và trong bối cảnh nào? Con người tôn trọng, bảo vệ và
thực hiện sự "tự do" đó như thế nào và bằng cách nào? Các tín ngưỡng
nói chung và Phật giáo nói riêng quan niệm như thế nào về sự tự do đó?
Bải viết dưới đây sẽ gồm có ba phần: Phần I nêu lên sự hình thành của các nền
văn minh nhân loại vào các thời kỳ cổ đại tức là sau khi con người như chúng ta
bắt đầu hiện hữu trên hành tinh này; Phần II trình bày một vài xu hướng sinh
hoạt và các trào lưu tư tưởng trong xã hội từ các thời kỳ thượng cổ và trung cổ
đến nay. Sau hết là Phần III sẽ trình bày quan điểm của Phật giáo về sự tự do.
Phần I
Sự hình thành của các nền văn minh cổ đại
Thủy tổ xa xưa nhất của loải người (hominid, primate) xuất hiện cách nay khoảng
7 triệu năm tại Phi Châu và gồm nhiều giống (genus) và loài (species) khác
nhau, đó là các chúng sinh biết đứng bằng hai chân và sống trên mặt đất. Sau đó
cách nay khoảng 2,5 triệu năm trong số các chúng sinh này xuất hiện thêm một
giống mới gọi làHomo, và giống này cũng gồm có nhiều loài khác nhau.
Trong số các loài này có một loài mà các khoa học gia gọi là Homo
sapiens, đó là tổ tiên trực tiếp và xa xưa nhất của tất cả chúng ta ngày
nay. Cách nay khoảng 200 000 năm trong số các chúng sinh Homo sapiens trên
đây lại xuất hiện thêm một nhóm mới mà các khoa học gia gom chung vào một thứ
loại (sub-species) gọi là Homo sapiens sapiens, là "loài
người" chúng ta ngày nay - kể cả da trắng, da đen, da đỏ, da vàng.... Gần
như suốt thời gian hiện hữu cách nay 200 000 năm, các con người tiền sử đó sống
du mục, họp nhau thành từng nhóm nhỏ, từng toán hay từng đoàn. Cuộc sống của họ
diễn ra trong màn đêm của các thời tiền sử và bán khai, chi phối bởi bản năng
và các sự sợ hãi: đói khát, thú dữ, sấm sét, bão tố, cướp giật, tranh dành, gây
hấn... Cách nay khoảng 7 000 năm, lẩn đầu tiên con người bắt đầu sống định cư,
biết trồng trọt và chăn nuôi, mở màn cho sự hình thành các nền văn minh đầu
tiên của nhân loại.
Vào các thời kỳ tiền sử và bán khai nếu con người chỉ biết nhón chân để canh
chừng thú dữ thì ngày nay họ biết làm phi cơ để bay trong không trung, làm hỏa
tiễn để lên cung trăng và trở về địa cầu. Vào các thời kỳ xa xưa đó nếu họ chỉ
biết đấm đá, đánh nhau bằng gậy gộc, ném đá, ném lao để tranh dành và bảo vệ
miếng ăn, thì ngày nay họ biết làm súng đạn và bom hạt nhân. Trước đây trong
cuộc sống hằng ngày chỉ toàn là lo sợ, nay thì họ biết sáng chế ra triết học,
tôn giáo, văn chương, thi phú, nghệ thuật... mang lại cho mình những phút giây
"thư giãn". Từ cách sống du mục họ biết thành lập làng mạc, đô thị,
quốc gia, các thế liên minh, và cũng từ đó mà các cuộc xung đột cũng mang các
kích thước to lớn hơn, chiến tranh mang tính cách toàn cầu hơn. Năm 1945 sau
hai cuộc thế chiến, con người thiết lập được một tổ chức gọi là "Liên Hiệp
Quốc", nhưng cũng chỉ là một tổ chức không có thực quyền gì cả. Vậy trên
dòng tiến hóa đó ý niệm về sự tự do phát sinh từ lúc nào và trong bối cảnh nào?
Sự tiến hóa của xã hội con người nói chung rất phức tạp và đa dạng, bắt đầu
bằng sự hình thành của nhiều nền văn minh khá khác biệt tại nhiều nơi trên địa
cầu, nhưng tất cả đều xuất hiện gần như cùng một thời kỳ với nhau. Chúng ta sẽ
lần lượt tìm hiểu về các nền văn minh cổ đại này để xem tổ tiên chúng ta có
được thừa hưởng sự tự do hay không và từ lúc nào?
Thời kỳ tiền sử
Dòng tiến hóa của con người nói chung có thể chia ra thành hai giai đoạn: thời
kỳ tiền sử khi con người chưa có chữ viết và thời đại lịch sử sau khi chữ viết
được phát minh. Gần như trong suốt khoảng thời gian 200 000 năm hiện diện trên
hành tinh này, con người sống trong đêm tối của thời tiền sử, chúng ta không
biết được gì nhiều trong khoảng thời gian này ngoài những sự suy diễn dựa vào
các di tích và các dấu vết lưu lại từ các sinh hoạt của họ trong thời gian trên
đây. Cách nay 35 000 năm tổ tiên chúng ta biết đục khắc và vẽ tranh trên các
vách đá và trong các hang động. Cách nay 20 000 năm họ biết làm các dụng cụ thô
sơ bằng đá, sau đó thì biết mài các dụng cụ này làm cho chúng sắc bén hoặc tinh
xảo hơn, biết sáng chế ra kim may bằng xương với lỗ xỏ chỉ, dùng để khâu các
tấm da thú làm quần áo hoặc lều. Cách nay 13 000 năm họ bắt đầu biết chôn người
chết với một vài nghi thức, chẳng hạn như chôn theo trang sức và một vài vật
dụng trong cuộc sống thường nhật, rắc lên xác chết các bột đất màu đỏ. Các nhà
khảo cổ và các nhà nhân chủng học cho rằng đây là các dấu hiệu đầu tiên cho
thấy ý niệm "tín ngưỡng" phát sinh nơi con người. Sau thời gian tiền
sử và bán khai trên đây là thời kỳ cổ đại với sự xuất hiện của nhiều nền
"văn minh" đầu tiên của nhân loại. Chúng ta sẽ lần lượt điểm qua vài
nét chủ yếu về các nền văn minh này.
Nền văn minh
Mesopotamia
Nền văn minh Mesopotamia - còn gọi là Lưỡng Hà - là nền văn minh được hình
thành tương đối sớm nhất, cách nay khoảng 7 000 năm trong một vùng đồng bằng
nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrate thuộc Iraq và Syria ngày nay. Với nền
văn minh này lần đầu tiên con người biết trồng trọt, thuần hóa thú rừng, thành
lập làng mạc. Khoảng hơn 1 500 năm sau đó tức là khoảng 3 500 năm trước Tây
Lịch, "chữ viết" xuất hiện trong nền văn minh này, thế nhưng đấy cũng
chỉ là các ký hiệu hình "đầu đinh" (cuneiform), ghi khắc bằng cách
dùng một que nhọn ấn xuống các tấm đất sét còn mềm. Các tấm đất sét này dùng để
ghi chép các chi tiết trong việc buôn bán và trao đổi. Sau khi phơi khô thì các
tấm đất sét này được sử dụng như các chứng từ thương mại. Sự phát minh ra chữ
viết hình "đầu đinh" trên đây tuy chưa mang lại văn chương, thi phú,
cũng không ghi chép các biến cố và sự kiện lịch sử, nhưng cũng có thể xem như một
bước tiến quan trọng đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn tiền sử và bán khai và
mở đầu cho giai đoạn "lịch sử" của nhân loại. Gạch dùng để xây cất
cũng đã được phát minh lần đầu tiên trong nền văn minh này, nhưng lúc đầu thì
chưa biết nung. Các công cuộc khai quật phát hiện nhiều di tích nhà cửa, đường
xá, đô thị, các bức tường thành, v.v. Nhiều nhà khảo cổ xem vùng Lưỡng Hà là
cái nôi của nhân loại.
Tín ngưỡng của nền văn minh này mang tính cách đa thần, dựa vào các huyền thoại
và vô số các thần linh (gods): thần Bầu Trời (không gian), thần Gió, thần Vực
Sâu, thần Sấm Sét (Thiên Lôi), thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, v.v. Huyền
thoại là các câu chuyện tưởng tượng thường mang tính cách mầu nhiệm nói lên một
sức mạnh siêu nhiên nhằm mục đích tạo ra một sự kính phục và sợ hãi, thúc đẩy
con người cầu xin, an phận và ngoan ngoãn. Đây cũng là một nét chung thường
thấy ở hầu hết các tín ngưỡng của các nền văn minh cổ đại khác. Đứng trước các
hiện tượng thiên nhiên mà nguyên nhân không biết là do đâu - chẳng hạn như đêm
tối, hừng đông, ban ngày, ban đêm, sấm sét, lụt lội, động đất, cháy rừng... -
người ta thường tưởng tượng ra các sức mạnh huyền bí tạo ra các hiện tượng ấy,
và từ đó họ tạo dựng các huyền thoại (mythologies) bằng cách cụ thể hóa và nhân
cách hóa các sức mạnh ấy dưới hình thức các vị thần linh (gods). Các vị thần
linh đủ loại biến dạng qua sự tưởng tượng trên dòng tiến hóa của xã hội con
người, dần dần trở thành "trừu tượng" hơn, các sức mạnh thần bí cụ
thể hóa bằng các vị thần linh được gom chung biểu trưng cho một Đấng Toàn Năng
duy nhất (God) thường được gọi là Trời, Thượng Đế, Đấng Sáng Tạo... Chỉ có một
trường hợp duy nhất đi ngược với quá trình tiến hóa trên đây là bản kinh Vệ-đà
(Veđa) của nền văn minh cổ đại Ấn Độ, trong kinh này sức mạnh thiêng liêng được
hình dung bởi một vị duy nhất là Vị Trời Brahma, sau đó trên dòng tiến hóa của
xã hội Vị Trời Brahma biến thành một lô các vị trời khác, đưa đến sự hình thành
của Ấn giáo (Hinduhism) mang tính cách đa thần (sẽ nói thêm trong phần trình bày
về nền văn minh Ấn Độ).
Nền văn minh Trung
Quốc
Nền văn minh cổ đại của Trung Quốc cũng xuất hiện rất sớm cách nay cũng khoảng
7 000 năm, tức gần như đồng lượt với nền văn minh Lưỡng Hà, với làng mạc, ruộng
vườn xuất hiện trong vùng đồng bằng dọc hai bên bờ sông Hoàng Hà. Giai đoạn
lịch sử bắt đẩu từ triều đại nhà Thương (Shang) từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XI
trước Tây Lịch, các triều đại trước đó có thể chỉ là truyền thuyết hay huyền
thoại. Dầu sao thì chế độ quân chủ cũng là chế độ chung của tất cả các nền văn
minh cổ đại.
Trong nền văn minh cổ đại của Trung Quốc, Vạn lý Trường Thành là kiến trúc đồ
sộ nhất, dài hơn sáu nghìn cây số, khởi công từ thế kỷ thứ III trước Tây
Lịch và chỉ hoàn tất vào thế kỷ XVII sau Tây Lịch, và đây cũng là một trong số
các công trình xây dựng to lớn nhất trong lịch sử văn minh nhân loại trên
tất cả mọi phương diện: chiều dài, diện tích và khối lượng. Dưới một góc nhìn
nào đó thì bức tường thành này đã khiến cho người Trung Quốc tự cô lập mình và
mang lại cảm tính mình là trung tâm của thế giới.
Chữ viết được phát minh rất sớm trong nền văn minh này, người ta tìm thấy các
mu rùa và các mảnh xương có khắc các ký hiệu dùng vào việc bói toán từ thế kỷ
XV trước Tây Lịch. Giấy viết được phát minh vào thế kỷ thứ II trrước Tây Lịch.
Người Trung Quốc cũng sử dụng tiền giấy trước nhất, và có đầu óc buôn bán từ
các thời kỳ cổ dại.
Trong lãnh vực tư tưởng và tôn giáo thì người ta thấy xuất hiện hai nhân vật
nổi bật nhất là Khổng Tử và Lão Tử vào thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch, tức là
cùng thời đại với Đức Phật. Khổng Tử chủ trương một nền luân lý tạo ra một xã
hội an bài và trật tự nhằm phục vụ vương quyền. Nền luân lý và trật tự đó đưa
đến sự hình thành một giai cấp lãnh đạo và trên trước trong xã hội, gọi là giới
sĩ phu (mandarin/quan lại) tuyển chọn bằng thi cử và xem đó như một lý tưởng xã
hội, điều này rõ ràng là đi ngược lại với sự "tự do" theo quan điểm
ngày nay. Cũng xin nhắc thêm là cách quản lý con người trên đây đã ảnh hưởng
sâu đậm đến nền văn hóa và xã hội Việt Nam. Việc thi cử tuyển chọn sĩ phu được
tổ chức ở Việt Nam không gián đoạn suốt 1300 năm, từ năm 605 đến năm 1905, tức
là chỉ chấm dứt dưới thời Pháp thuộc.
Đi ngược lại với chủ trương "nhập thế" của Khổng Tử, Lão tử trong
quyển Đạo Đức Kinh đã đưa ra một học thuyết triết học mang các
đường nét "thoát tục". Theo một số các các học giả Tây Phương thì Lão
Tử có thể không phải là một nhân vật lịch sử mà chỉ là huyền thoại, vì họ nghĩ
rằng tập Đạo Đức Kinh là một quyển sách gom góp các câu phát
biểu của một số tư tưởng gia vào thời bấy giờ. Dù thế nào đi nữa thì quyển Đạo
Đức Kinh cũng đã phản ảnh toàn bộ tư tưởng siêu hình của Trung Quốc
vào thời cổ đại. Nội dung của quyển sách rất trừu tượng, các ý tưởng rất bao
quát và đôi khi khá mơ hồ khó nắm bắt, do đó mọi sự suy diễn đều có thể xảy ra
và trên thực tế cũng đúng như vậy vì đã đưa đến các cách hiểu biết và áp dụng
lệch lạc. Và cũng thật hết sức bất ngờ là trên dòng thoái hóa của học thuyết
này tư tưởng của Lão Tử đã đưa đến sự hình thành của một tín ngưỡng gọi là Lão
giáo (Taoism) với các huyền thoại, nghi lễ, các phép luyện tập trường sinh, các
phương pháp luyện đan, phong thủy, v.v.
Chữ Đạo (道/Tao) trong quyển Đạo
Đức Kinh có nghĩa là "Con Đường", biểu trưng cho một thể
dạng vượt lên hai thái cực là Âm (Yin/陰) và Dương (陽/Yang) vừa đối nghịch
vừa bổ khuyết cho nhau, nhằm nói lên bản chất của mọi sự vật trong vũ trụ. Tập
sách này còn nêu lên một khái niệm khá quan trọng nữa là Qi (氣, Khí, Khí lực, Sinh khí) là nguồn gốc của sự
sống và của cả vũ trụ. "Đạo" cần có "Khí" để vận hành. Hai
khái niệm "Đạo" và "Khí" theo thời gian dần dần trở thành
nền tảng chung của toàn bộ tư tưởng, triết học và cả "tín ngưỡng" của
Trung Quốc, ảnh hưởng đến y khoa, văn hóa, nghệ thuật và tất cả mọi hình thức
sinh hoạt khác, từ trong gia đình đến ngoài xã hội, từ các phép luyện đan bất
tử, xem phong thủy, bói toán, võ thuật, tài chí, khí công, cách hành xử
"vô vi" (wuwei/無爲)... cho đến cả nghệ
thuật tình dục gọi là "mây mưa". Từ các thời kỳ thượng cổ cũng đã có
rất nhiều sách giảng dạy về tính dục với mục đích làm gia tăng "khí
lực" (Qi/Khí) giúp sống lâu, chẳng hạn như quyển sử ký của Sima Quan (Sư
Mã Thiên) cho biết rằng Chu Vũ Vương (thế kỷ XII trước Tây Lịch) từng tổ chức
các buổi làm tình tập thể với các cung nữ lõa thể được ngâm trong các vại chứa
rượu. Người ta tìm được một quyển sách rất xưa mà ngày nay vẫn còn nhiều người
thích đọc và cũng đã được dịch ra các ngôn ngữ Tây Phương, đó là quyển sách nói
về nghệ thuật phòng the (素女經/Sunu Jing/Tố Nữ
Kinh), quyển sách này có thể đã được trước tác từ các thời kỳ cổ đại, dựa
vào thuyết âm dương của Lão giáo, chỉ dạy các tư thế và kỹ thuật làm tình hầu
làm gia tăng "khi lực" (Qi) giúp sống lâu. Theo quyển sách này thì
nếu người đàn ông làm tình liên tiếp với nhiều phụ nữ nhưng không xuất tinh sẽ
tồn giữ được "sinh khí" bên trong cơ thể, "sinh khí" sẽ
theo cột xương sống di chuyển lên não bộ. Tóm lại là ý nghĩ "trường sinh
bất tử" là một thứ ám ảnh sâu kín của Lão giáo. Mặt khác các nhà sử học và
nhân chủng học cũng cho biết là dân tộc Hán sinh sản mạnh nhất thế giới, trong
các thời kỳ cổ đại mỗi người phụ nữ Hán sinh trên dưới mười lần và trung bình
nuôi được từ hai đến ba con. Từ trong các thời kỳ tiền sử cho đến ngày nay dân
tộc Hán luôn là dân tộc đông người nhất thế giới. Giống tê giác gần bị tuyệt
chủng, nhiều quốc gia lân bang bị đồng hóa, dân tộc Hán ngày nay lan tràn khắp
nơi trên địa cầu..., nguyên nhân sâu xa của tất cả các hiện tượng này phải
chăng cũng có thể đã bắt nguồn từ khái niệm âm dương hòa hợp của Lão giáo? Mạn
phép dài dòng như trên đây bởi vì Phật giáo đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của Lão
giáo khi phát triển tại Trung Quốc, các ảnh hưởng này làm biến dạng không ít
Giáo Huấn của Đức Phật.
Dầu sao thì nền văn minh cổ đại của Trung Quốc cũng khá cao thế nhưng tuyệt
nhiên không thấy nói gì đến ý niệm về sự "tự do" theo cách hiểu ngày
nay, lý do có thể là tư tưởng của Khổng Tử chủ trương một xã hội giai cấp, an
phận và trật tự đã ăn sâu vào đời sống của dân tộc Hán (?). Tuy nhiên khía cạnh
"vô vi" trong Lão giáo dường như cũng đã thổi vào tâm hồn của người
dân Hán một cảm tính "thoát tục", phản ảnh một nhu cầu tự nhiên đòi
hỏi một sự "tự do" nào đó trên phương diện tư tưởng. Có thể từ điểm
này đã đưa đến sự lẫn lộn và mập mờ giữa thái độ "vô vi" của Lão giáo
và sự "giải thoát" trong Phật giáo. Dầu sao thì "vô vi"
trong Lão giáo không phải là một thái độ "bầt cần" và thụ động tức
không tham gia vào cuộc sống thế tục, mà thật ra phản ảnh một sự khiêm tốn, xa
lánh sự bon chen trong xã hội, với hậu cảnh là lòng thương người, phù hợp với
bản thể của "Đạo". Tuy nhiên đấy cũng chỉ là cách đề cao một thái độ,
một cung cách hành xử, nhưng không nêu lên một phương pháp tu tập mạch lạc nhằm
mang lại một thành quả hay một sự hiểu biết nào cả.
Gần như đồng thời với nền văn minh cổ đại Trung Quốc, tại phương Tây một nền
văn minh khác cũng đã được hình thành, đó là nền văn minh Hy Lạp. Nền văn minh
này tạo ra nhiều ảnh hưởng sâu rộng không những trong nền văn hóa và tư tưởng
tại phương Tây mà còn lan rộng ra trên toàn thế giới ngày nay qua các phong
trào di dân, xâm chiếm thuộc địa, quảng bá đức tin và nhất là chủ trương đồng
hóa các nước khác của người Tây Phương trong các thời kỳ cận đại. Cũng không
phải khó để nhận thấy các ảnh hưởng của người phương Tây trên các lục địa khác:
từ cách ăn mặc, giao tiếp, các mẫu mực trong cuộc sống thường nhật cho đến luật
pháp, ngôn ngữ (tiếng Anh chẳng hạn), ngữ tự La Tinh, triết học, chính trị,
kinh tế, kể cả các lý tưởng xã hội chẳng hạn như sự "tự do", chủ thuyết
cộng sản, v.v. Dưới đây chúng ta sẽ bước sang tìm hiểu về nền văn minh cổ đại
của Hy Lạp và cũng là của toàn thể Âu Châu.
Nền văn minh Hy Lạp
Nền văn minh cổ đại Hy Lạp bắt đầu bằng sự hình thành các làng mạc vào thế kỷ
thứ VIII trước Tây Lịch, và điểm cao nhất là vào thế kỷ thứ V với sự xuất hiện
của các triết gia thật uyên bác như Socrates (thế kỷ thứ V trước Tây Lịch),
Plato (thế kỷ thứ V trước Tây Lịch), Aristotle (thế kỷ thứ IV trước Tây Lịch).
Athens là thành phố xưa nhất của nhân loại, được xây dựng vào thế kỷ thứ V
trong một vùng làng mạc và đô thị thiết lập từ thế kỷ thứ VII trước Tây Lịch.
Điều đáng lưu tâm hơn là tiếng Hy Lạp có chung nguồn gốc Âu Ấn với tiếng Phạn.
Ngôn ngữ có nguồn gốc Ấn Âu được đưa vào Hy Lạp qua nhiều đợt từ thế kỷ thứ IX
đến thứ IV trước Tây Lịch, đã ảnh hưởng và góp phần làm phong phú hơn các ngôn
ngữ địa phương (thổ ngữ) của nước này. Ngày nay người ta có thể nhận thấy một
số nét tương đồng về ngữ pháp giữa các ngôn ngữ Tây Phương và tiếng Phạn. Ngữ
tự (chữ viết) được đưa vào Hy Lạp vào khoảng thế kỷ thứ VII hay VIII trước Tây
Lịch, vay mượn từ xứ Phoenicia trong vùng Cận Đông (Liban ngày nay). Ngữ tự Hy
Lạp biến dạng và trở thành ngữ tự La Tinh vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Tây
Lịch. Sở dĩ dài dòng là vì ngày nay trên toàn thế giới, ngữ tự La Tinh được sử
dụng nhiều nhất. Gần bốn mươi phần trăm dân số thế giới sử dụng ngữ tự La Tinh
để làm chữ viết của họ. Anh Quốc là một trong số các nước từng xâm chiếm và
thiết lập thuộc địa nhiều nhất trên thế giới, đã đặc biệt thành công trong việc
"áp đặt" ngôn ngữ, thói tục, tập quán và cả tín ngưỡng của họ trên
đất Mỹ cũng như tại các cựu thuộc địa của nước này như Úc, Gia Nã Đại, Tân Tây
Lan ..., trước khi lan sang các quốc gia khác trên thế giới.
Trở lại với nền văn minh cổ đại của Hy Lạp thì tín ngưỡng là đa thần, xoay
quanh các huyền thoại sáng chế ra các vị thần linh (gods) đủ loại, trong số này
có 12 vị quan trọng nhất, 7 là nam và 6 là nữ. Ba vị cao nhất đều thuộc nam
giới là: thần Sấm Sét Zeus (Thunder God) cai quản cõi trời, thần Đại Dương
Poseidon (God of the Sea) tạo ra giông tố, động đất..., và thần Hades (God of
the Underworld) là chúa tể Địa Ngục, cả ba chia nhau đảm trách việc điều hành
thế giới. Dân chúng rất sùng đạo, tôn trọng lễ nghi. Việc tôn thờ các thần linh
được tổ chức long trọng trong các đền đài to lớn và cả ở các nơi công cộng, về
mặt dân gian thì quy định một số cung cách hành xử phải tôn trọng trong cuộc
sống thường nhật trong môi trường gia đình cũng như ngoài xã hội. Tín ngưỡng
hoàn toàn được xây dựng trên huyền thoại, không có giáo điều cũng không có
thánh kinh, do đó các việc thờ phụng thần linh và các nghi thức lễ bái - ít
nhất là theo quan điểm ngày nay - mang nặng tính cách "dị đoan". Di
tích ngôi đền đồ sộ Parthenon còn lưu lại ngày nay tại thủ đô Athens từng là
nơi thờ phụng 12 vị thần linh quan trọng nhất. Các sự kiện trên đây cho thấy
một sự tương phản với nền triết học và tư tưởng rất cao của Hy Lạp vào thời bấy
giờ. Thật vậy tôn giáo thường mang tính cách dân gian phát triển trong một môi trường
rộng lớn, trong khi đó triết học và khoa học phát triển trong một khuôn khổ thu
hẹp hơn, các phương tiện truyền thông giới hạn vào thời bấy giờ không giúp được
gì vào việc phổ biến tư tưởng của các nhà thông thái.
Trên phương diện chính trị thì Alexandros Đại Đế (A-lịch-sơn Đại đế/Alexander
The Great, -356-323 trước Tây Lịch) vua xứ Macedonia (bắc Hy Lạp ngày nay),
từng là đệ tử của triết gia Aristotle, là một trong các tướng lãnh và chiến
lược gia nổi tiếng nhất trong các thời kỳ cổ đại trên địa cầu, từng đánh chiếm
khắp nơi và thành lập một đế quốc mênh mông kéo dài từ các vùng phía đông Địa
Trung Hải đến tận tây bắc Ấn Độ. Chính dưới triều đại của Alexandros Đại Đế lần
đầu tiên có sự tiếp xúc và trao đổi văn hóa giữa hai thế giới Đông và Tây Phương.
Đối với Phật giáo thì các sự tiếp xúc này đã đưa đến sự hình thành của một
quyển sách rất quan trọng, được xem như là một quyển kinh với đầy đủ ý nghĩa
của nó, đó là quyển Malindapanha (Di-lan-đà vấn đạo Kinh, còn gọi là Na
Tiên Tỳ kheo Kinh) ghi lại các câu hỏi và lời giải đáp giữa vua
Milanda (Di-lan-đà) và một nhà sư tên là Nagasena (Na-tiên). Milanda là tiếng
Phạn và Pa-li, dịch âm tên của vua Menandros I/Menander I trị vì một vương quốc
to lớn là Bactria (Greco-Bactrian Kingdom) giáp ranh với đế quốc của vua Azoka
(A-dục) về mạn tây bắc, từ năm -160 đến năm -135 (trước Tây Lịch). Vương quốc
Bactria thuộc đế quốc của Alexandros Đại Đế thành lập từ thế kỷ thứ III trước
Tây lịch. Nagasena (Na Tiên) là một nhà sư thuộc học phái Sarvastivada (Nhất thiết
Hữu Bộ/một học phái cho rằng mọi hiện tượng đều là thật), sinh tại Kashmir,
sống khoảng năm -150 (trước Tây Lịch). Các lời giải đáp trong quyển sách này
cho thấy nhà sư Nagasena vô cùng uyên bác, thế nhưng cũng lạ và đáng tiếc là
ngoài tậpMalindapanha trên đây không thấy kinh sách Phật giáo nào
khác nói đến nhà sư này. Tập sách Malindapanha được trước tác
trong khoảng thời gian giữa năm -100 (trước Tây Lịch) và năm 200 (sau tây
Lịch). Sau khi nghe các lời giải đáp vô cùng sâu sắc của nhà sư Nagasena thì vua
Milinda (Menander I) quyết định theo Phật giáo. Thật ra sự du nhập của Phật
giáo vào thế giới Tây Phương cũng chỉ có vậy, phải chờ gần 20 thế kỷ sau đó thế
giới Tây Phương mới thật sự bắt đầu khám phá Phật giáo qua các phong trào xâm
chiếm thuộc địa vào các thời kỳ cận đại (thế kỷ XVIII và XIX).
Về phía Phật giáo thì cũng đã chịu một số ảnh hưởng của nền văn minh Hy Lạp
trong lãnh vực điêu khắc, Người ta tìm thấy các pho tượng đầu tiên biểu thị
nhân dạng Đức Phật được tạc vào thế kỷ thứ I sau Tây Lịch, tức cùng thời kỳ với
sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa và sự xuất hiện của kinh sách bằng Phạn
ngữ. Các pho tượng này cho thấy Đức Phật mặc y phục Hy Lạp hoặc La Mã, gương
mặt người Âu Châu. Trước thời kỳ này, có nghĩa là trước thế kỷ thứ I, các biểu
tượng nói lên sự hiện diện của Đức Phật trong thế giới này chỉ là các điêu khắc
cho thấy một cái ngai trống không, một cội cây Bồ-đề, hoặc dấu chân mang
các tướng tốt của Ngài mà thôi..
Ngoài nền văn minh Hy Lạp, thế giới Tây Phương còn có thêm một nền văn minh thứ
hai là nền văn minh La Mã được hình thành tiếp theo nền văn minh Hy Lạp.
Nền văn minh La Mã
La Mã thật ra chỉ là tên gọi của một vùng đô thị nhưng sau đó đã được dùng để
gọi một đế quốc thật to lớn trong thời cổ đại. Nền văn minh La mã cũng có một
quá khứ khá lâu đời, các làng mạc đầu tiên được hình thành từ thế kỷ thứ VII
trước Tây Lịch và sau đó là các vùng đô thị, thế nhưng không có gì sáng chói cả
cho đến khi đế quốc La Mã được thành lập từ thế kỷ thứ I trước Tây Lịch đến cuối
thế kỷ thứ IV sau Tây Lịch. Sau ba cuộc viễn chinh liên tiếp vào các năm -217,
-197 và -168 (trước Tây Lịch), người La Mã chiếm trọn đế quốc Macedonia của
Alexandros Đại đế trước đây, sự tan rã của đế quốc này đánh dấu sự chấm dứt của
nền văn minh Hy Lạp. Không những chiếm trọn đế quốc Macedonia mà người La Mã
còn tiếp tục chiếm gần như toàn thể Âu Châu, từ bắc nước Anh cho đến toàn vùng
chung quanh Địa Trung Hải - trong đó kể cả đế quốc Ai Cập của các vua Pharaohs
cuối cùng - và cả vùng Lưỡng Hà tại Trung Đông. Sau khi đế quốc La Mã bắt đầu
suy tàn từ cuối thế kỷ thứ IV và lãnh thổ bị thu hẹp chỉ còn lại các vùng phía
đông Địa Trung Hải từ năm 395, thì các sử gia ngày nay đổi tên đế quốc La Mã
thành đế quốc Byzantine.
Một cách tổng quát đế quốc La Mã đã thừa hưởng toàn bộ nền văn minh Hy Lạp, kể
cả tín ngưỡng. Tuy nhiên trước khi du nhập tín ngưỡng Hy Lạp, dân tộc La Mã
cũng đã có tín ngưỡng riêng của họ. Tín ngưỡng này cũng đa thần và dựa vào các
huyền thoại tương tự như các tín ngưỡng cổ đại khác, thế nhưng sau đó tín
ngưỡng Hy Lạp dần dần được du nhập và tạo ra nhiều ảnh hưởng sâu đậm trong xã
hội La Mã. Thần linh Hy Lạp trở thành thần linh La Mã dưới các tên khác, chẳng
hạn như thần Zeus và thần Athena của Hy Lạp trở thành thần Jupiter và thần
Minerve của La Mã, v.v. Sau khi đế quốc La Mã được thành lập từ thế kỷ
thứ I thì người La Mã lại dần dần tiếp nhận thêm các vị thần linh của các nơi
mà họ đánh chiếm, chẳng hạn như thần Teutatès của dân tộc Gallia (Gaul, một dân
tộc sinh sống trên đất Pháp và các vùng lân cận từ thế kỷ thứ V trước Tây Lịch
đến khi đế quốc La Mã được thành lập), thần Isis của Ai Cập, v.v. Việc thờ
phụng thì cũng nhất thiết dựa vào sự hiến sinh, lễ vật, sự cầu khẩn, một cách
tổng quát là dưới các hình thức trao đổi và đền ơn giữa con người và thần
thánh.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ I, sau khi được sáng lập Ki-tô giáo bành trướng nhanh
chóng trong đế quốc La Mã. Ki-tô giáo chủ trương chỉ thờ một vị Trời duy nhất,
đi ngược lại với tín ngưỡng đa thần của La Mã thời bấy giờ, do đó không tránh
khỏi các cuộc xung đột và chống đối. Ki-tô giáo lúc đầu bị cấm đoán trên toàn
lãnh thổ của đế quốc La Mã, thế nhưng vẫn tiếp tục bành trướng. Năm 312 hoàng
đế Constantine của La Mã cải đạo theo Ki-tô giáo. Tín ngưỡng "cổ
truyền" của người dân La Mã trước đây không còn giữ được vị thế "quốc
giáo" nữa và đến năm 391 thì chính thức bị cấm đoán tại thành phố La Mã,
và một năm sau thì lệnh cấm này được áp dụng trên toàn thể lãnh thổ, và hoàng
đế Theodose I chính thức tuyên bố Ki-tô giáo là quốc giáo ngày 8 tháng 11 năm
392. Tuy nhiên tín ngưỡng đa thần trước đây của dân tộc La Mã vẫn còn được duy
trì kín đáo nhưng chỉ là các hình thức tín ngưỡng dân gian. Dầu sao thì cả hai
nền văn minh cổ đại Hy Lạp và La Mã đã góp phần làm nền tảng chung cho toàn bộ
nền văn minh Âu Châu từ thời Trung Cổ đến ngày nay, và trên phương diện tín
ngưỡng thì quyết định của hoàng đế Theodose I đưa Ki-tô giáo lên hàng quốc giáo
của đế quốc La Mã mênh mông đã trở thành tín ngưỡng "lâu đời" của
toàn thể thế giới Tây Phương ngày nay.
Dưới đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu về hai nền văn minh cổ đại khác là Ai
Cập và Maya, trước khi đề cập đến nền văn minh Ấn Độ, nơi mà Phật giáo đã được
hình thành. Hai nền văn minh Ai Cập và Maya cũng rất lâu đời nhưng khá biệt
lập, không lan rộng và không gây ra các ảnh hưởng đáng kể bên ngoài ranh giới
của các quốc gia này, khác hơn với hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã luôn mở
rộng biên giới, xâm chiếm khắp nơi và mang theo văn hóa của họ. Do đó chúng ta
sẽ vắn tắt hơn khi đề cập về hai nền văn minh này.
Nền văn minh Ai Cập
Khoảng hơn ba ngàn năm trước Tây Lịch tại đông bắc Phi Châu dọc theo dòng sông
Nil, một đế quốc và một nền văn mình thật sáng chói đã hình thành. Hàng chục
triều đại của các vị vua Pharaohs nối tiếp nhau cai trị cho đến năm -2050
(trước Tây Lịch) thì bị dân tộc Kyksos - tổ tiên của giống dân Hebreux (Do
Thái) sau này - từ các vủng Cận Đông xâm chiếm. Sau đó các vị vua Pharaohs dành
lại được quyền bính từ năm -1590 (trước Tây Lịch). Thế nhưng kể từ năm -1085 (trước
Tây Lịch) lại liên tiếp bị các nước khác xâm chiếm. Năm -30 (trước Tây Lịch)
thì bị sáp nhập vào đế quốc La Mã.
Chữ viết được phát minh rất sớm từ khi đế quốc này mới được thành lập, tức là
khoảng ba ngàn năm trước Tây Lịch. Loại chữ này gồm khoảng 500 ký hiệu tượng
hình (hieroglyph), mỗi ký hiệu có thể là một chữ với đầy đủ ý nghĩa, hoặc cũng
có thể chỉ là một vần hay một âm vận, do đó rất khó giải đoán cho các sử gia và
các nhà khảo cổ sau này. Xã hội được tổ chức rất chặt chẽ; luật pháp, văn hóa,
nghệ thuật (hội họa, điêu khắc...) , khoa học (toán học, thiên văn, y khoa...),
kỹ thuật (thuyền bè, kiến trúc...) phát triển cao độ. Các phát minh đáng kể
nhất là gốm sứ, thủy tinh, nghệ thuật ướp xác, các kim tự tháp đồ sộ và kiên cố
nhằm chuẩn bị cho "cuộc sống trong thế giới bên kia".
Tín ngưỡng đa thần, xoay quanh sự tin tưởng là sau khi chết sẽ có một "thế
giới bên kia". Thần linh rất nhiều và đủ loại, thường được tượng trưng
dưới các hình tượng khá kỳ quặc, nhân dạng nhưng đầu thú vật. Trong số các vị
thần linh có 10 vị quan trọng nhất và trong số này thì thần Osiris là quan
trọng hơn cả, đó là vị thần của hoa mầu cây cỏ, và cũng là vị thần mang lại văn
minh cho loài người. Vị thần Osiris cũng là vị thần cai quản cả thế giới bên
kia, được biểu trưng bởi một xác ướp, tay trái cầm phương trượng (scepter) biểu
trưng cho vương quyền, tay phải cầm một cái roi tượng trưng cho việc xử phạt,
và cũng là vị thần được thờ phụng nhiều nhất. Sau thần Osiris là thần Ra hay
thần "Mặt Trời", nhân dạng nhưng đầu ó. Thần Ra vận hành trên không
trung ban ánh sáng và hơi nóng cho con người; Thần Anubis mang thân người nhưng
đầu là chó rừng (jackal/chacal), là vị thần tẩm liệm và ướp xác, giữ trách vụ
đưa người chết ra tòa án cho thần Osiris xét xử. Isis là một vị nữ thần có
nhiều "phù phép", em gái và cũng là vợ của thần Osiris, và là mẹ của
thần Horus. Thần Horus có thân người nhưng đầu là chim ưng, giữ trọng trách bảo
vệ cho vương quyền, v.v. Nói chung các vị thần linh Ai Cập cũng tương tự như
các vị thần linh Hy Lạp và La Mã là các vị thần linh được tạo dựng bằng trí
tưởng tượng qua các huyền thoại.
Các vị thần được thờ phụng trong các đền đài mà chỉ có các vị pharaohs và các
giáo sĩ mới được bước chân vào. Việc thờ phụng gồm các nghi lễ hiến dâng, cầu
khẩn và tụng niệm. Vào các dịp lễ lạc, các pho tượng thần linh mới được cung
thỉnh và diễn hành bên ngoài đền đài để dân chúng chiêm bái. Năm -1365 (trước
Tây Lịch) vua Pharaoh Akhenaton IV có ý định sửa đổi tôn giáo và chủ trương chỉ
thờ một vị thần linh duy nhất nhưng bị thất bại.
Nền văn minh
Maya
Trên lục địa Mỹ Châu một nền văn minh khá biệt lập bắt đầu được hình thành kể
từ thế kỷ thứ III trước Tây Lịch trong vùng Trung Mỹ, muộn hơn so với các nền
văn minh khác, và dần dần suy tàn sau đó kể từ thế kỷ thứ VIII sau Tây Lịch.
Người Maya vào các thời văn minh cổ đại của họ rất giỏi về toán học và thiên
văn, chẳng hạn như họ tính được trong một năm có 365, 2420 ngày, theo các nhà
thiên văn hiện đại ngày nay thì một năm có 365, 2422 ngày. Tín ngưỡng của họ là
đa thần, tin vào sự xoay vần của vũ trụ và mọi hiện tượng theo các chu kỳ hình
thành và hủy hoại. Các giáo sĩ giữ vai trò tiên đoán vận mệnh và thời cơ của
con người và xã hội, nếu thời cơ sắp gặp vận xấu thì họ tổ chức các nghi lễ
hiến sinh nhằm cầu khẩn các vị thần linh tái lập lại sự vận hành bình thường
cho họ. Người Maya và các giáo sĩ của họ tiên đoán vào thế kỷ XVI (thời điểm
này được chuyển từ niên lịch Maya sang niên lịch Tây Phương) sẽ xảy ra tận thế,
do đó khi người Tây Ban Nha ào ạt xâm chiếm các nước Trung Mỹ vào thế kỷ này
thì các dân tộc thừa hưởng nền văn minh trước kia của người Maya là các dân tộc
Aztec (Mễ Tây Cơ này nay) và Inca (xứ Perou ngày nay) nghĩ rằng các sự xâm lược
đó là do lệnh của thần linh nên họ cam phận không kháng cự gì. Thật ra dù có
kháng cự thì cũng không sao đủ sức ngăn chận được các đạo quân Tây Ban Nha.
Tín ngưỡng của người Maya cũng như của các sắc tộc khác thuộc vùng trung Mỹ
thời bấy giờ là đa thần. Người Maya tin vào sự xoay vần của thiên nhiên gồm các
các chu kỳ hình thành và hủy hoại và vũ trụ thì gồm có ba thế giới hay ba cõi:
mặt đất nơi con người sinh sống thì dẹp và hình vuông, bên trên là bầu trời gồm
mười ba tầng, mỗi tầng có một vị thần linh cai quản, bên dưới mặt đất là cõi
âm, tối tăm và lạnh lẽo. Tất cả mọi người sau khi chết sẽ tái sinh vào cõi âm,
duy nhất chỉ có vua chúa nhờ có sức mạnh siêu nhiên nên từ cõi âm sẽ trực tiếp
tái sinh lên cõi trời. Họ thờ phụng vô số thần linh trong các huyền thoại.
Người Maya cho rằng thế giới và các vị thần linh được sinh ra từ một người cha
chung là Hun Nal Ye là vị Thần Rắn lông chim và Mẹ là Nữ Thần Mặt Trăng.
Ngoài ra còn có hai vị thần quan trọng khác là một cặp sinh đôi Hunahpu
và Xhalanque, là các vị thần chống lại sức mạnh của cõi âm, hai vị này sinh ra
loài người. Ngoài ra còn có thần Yum Kaax là Thần Bắp, xin nhắc thêm bắp hay
ngô là loại ngũ cốc căn bản nuôi sống dân tộc Maya. Thần Itzamna là vị thần
thiêng liêng nhất, vua chúa và các giáo sĩ thường xuyên cầu khẩn vị này giúp
cho dân chúng được bình an, vị thần này cũng sáng tạo ra chữ viết và có một sự
hiểu biết siêu nhiên. Nữ thần Ix Chel lả vợ của Thần Itzamna, trợ giúp người
phụ nữ trong việc sinh đẻ, và cũng vừa là thần lương y chữa trị bệnh tật.
Kinich Ahau là thần Mặt Trởi, Chac là Thần Mưa, v.v.
Người Maya xem máu là nguồn sinh lực mang lại sự sống cho con người và
cho cả các vị thần linh, do đó trong các nghi lễ tín ngưỡng việc hiến sinh rất
quan trọng. Hiến sinh có thể là giết thú vật, người, hoặc tự cắt máu, tự gây
thương tích hoặc tự hy sinh mạng sống của mình để hiến máu cho thần linh. Người
mang ra hiến sinh thường là tù binh, nô lệ, trẻ con mồ côi hay ngoại hôn, hoặc
bên thua hay bên thắng trong một trò chơi dùng thân người để tung một quả bóng
bằng mủ cao-xu. Các kim tự tháp của người Maya là các nơi hành lễ hiến sinh, vị
trí xây dựng được căn cứ vào sự phân bố các vì sao trên trời. Sau đây chúng ta
lại tiếp tục tìm hiểu về nền văn minh cổ đại của Ấn Độ.
Nền văn minh cổ đại Ấn
Độ
Nền văn minh cổ đại của nước Ấn được hình thành từ hai nơi khác nhau và
biệt lập với nhau và do đó có thể xem là hai nền văn minh khác biệt nhau: nền
văn minh sông Indus trên miền tây bắc và nền văn minh sông Hằng (Gange) thuộc
miền đông bắc nước Ấn ngày nay. Nền văn minh sông Indus được hình thành sớm hơn
nhưng đã suy tàn nhanh chóng và biến mất sau đó, gần như không lưu lại một ảnh
hưởng quan trọng nào, trái lại nền văn minh sông Hằng đã trực tiếp ảnh hưởng
đến toàn bộ văn hóa và xã hội nước Ấn và cả toàn thể Á Châu.
Nền văn minh sông
Indus
Khoảng 7 000 năm trước Tây Lịch, một sắc tộc có nguồn gốc Ấn-Âu (Indo-European
race) trong vùng Trung Á (Iran, Turkmenistan... ngày nay) di trú về phương đông
và định cư trên miền bắc Ấn. Khoảng 5 000 năm trước Tây Lịch làng mạc và đô thị
bắt đầu được thành lập trong thung lũng sông Indus, một vùng đồng bằng rộng lớn
thuộc tây bắc Ấn Độ và một phần của các nước Pakistan và Afghanistan ngày nay,
tạo ra một nền văn minh khá cao, thế nhưng cũng đã suy tàn nhanh chóng sau đó.
Bắt đầu từ các năm -1900 (trước Tây Lịch) nhiều dấu hiệu cho thấy dân chúng bỏ
đi nơi khác, khoảng 100 năm sau đó thì các vùng đô thị này hoàn toàn trở thành
hoang phế, và nền văn mình sông Indus rơi vào sự quên lãng của lịch sử nhân loại
từ đó, và chỉ mới được khám phá ra vào các thập niên sau này nhờ các công cuộc
khảo cổ tìm thấy nhiều di tích và dấu vết làng mạc, đô thị của nền văn minh
này. Các sử gia và khoa học gia cho rằng một trong các nguyên nhân gây ra sự
suy tàn nhanh chóng trên đây là khí hậu. Vào những năm -1900 (trước Tây Lịch)
khí hậu vụt trở nên lạnh lẽo và khô cằn, khiến dân chúng rời bỏ vùng này. Các
địa chất gia cho rằng các trận động đất xảy ra vào các thời kỳ trên đây làm cho
sông ngòi đổi hướng và trở nên khô cạn, khiến khí hậu đổi thay gây khó khăn cho
việc canh tác. Các sử gia thì lại cho rằng các dân tộc hiếu chiến trong các
vùng tây bắc sông Indus kéo vào thung lũng sông Indus cướp bóc gây ra loạn lạc.
Các nhà khảo cổ đưa ra một chi tiết về sự biến mất của nền văn minh này, đó là
các tấm đất sét ghi chép việc buôn bán giữa hai nền văn minh Indus và Lưỡng Hà
(Mesopotamia) và các bộ tộc khác trong vùng, không còn tìm thấy sau năm -1800
(trước Tây Lịch).
Sự pha trộn giữa một sắc tộc di dân ăn lúa mì, với vài nét Tây Phương - chẳng
hạn như râu tóc - pha trộn với các sắc tộc địa phương ăn lúa gạo, mang vóc dáng
Á Đông với làn da sậm màu, đã tạo ra một sắc tộc "mới" tự nhận mình
là dân tộc Arian (tiếng Phạn Arya có nghĩa là cao quý,
đáng kính/noble, honorable, một thuật ngữ rất thường thấy trong các kinh
sách Phật giáo và Ấn giáo). Thế nhưng điểm nổi bật và đáng lưu tâm hơn về nền
văn minh này là tính cách hiếu hòa và phi-bạo-lực của cả một xã hội. Các công
cuộc khảo cổ không tìm thấy một dấu tích nào cho thấy sự độc tài và hung bạo
của vua chúa thời bấy giờ: không vũ khí, không quân đội, không nô lệ, không
khám đường cũng không thấy các loại vũ khí tra tấn, cũng như các dấu vết cho
thấy các cuộc bạo động hay nổi loạn như thường thấy xảy ra trong các nền văn
minh khác. Về phương diện tín ngưỡng các nhà khảo cổ tìm thấy các hình tượng
"thánh mẫu" (mother-goddess), các cội cây (mang tính cách thiêng
liêng), các bùa hộ mệnh, các tượng bằng đất nung trong tư thế du-già (yoga) mà
một số học giả xem là các dấu hiệu đầu tiên đưa đến sự hình thành của Ấn giáo
và đạo Ja-ïn (Jaïnism) trong thung lũng sông Hằng sau này. Trong phần dưới đây,
chúng ta tiếp tục tìm hiểu về nền văn minh sông Hằng nơi mà Phật giáo đã được
hình thành.
Nền văn minh sông Hằng
Sau đợt di dân đầu tiên của sắc tộc Aryan đến vùng tây bắc Ấn tạo ra nền văn
minh sông Indus và sau khi suy tàn nền văn minh này đã để lại một khoảng trống
mênh mông trong lịch sử của toàn vùng bắc Ấn. Các nhà khảo cổ dựa vào một số di
tích khai quật được gần đây cho thấy có thể là một đợt di dân thứ hai của sắc
tộc Aryan từ các vùng Punjab phía tây của Pakistan ngày nay và vùng Doab một
giải đất nằm giữa thượng lưu sông Hằng và sông Jumna thuộc vùng đồng bằng sông
Indus, đã đến lập nghiệp trong thung lũng sông Hằng vào khoảng 1 500 năm trước
Tây Lịch và đã mang lại một nền văn minh thật đặc thù, hoàn toàn khác biệt với
các nền văn minh cổ đại khác.
Thật vậy nền văn minh sông Hằng thật hết sức huyền bí, lạ lùng, không lưu lại
một công trình đồ sộ nào - chẳng hạn như lăng tẩm của Tần Thủy Hoàng với các
đạo quân bằng đất nung, các kim tự tháp của các vị Pharaohs hay ngôi đền
Parthenon khổng lồ của thành phố Athens... Nền văn minh sông Hằng và cả trước
đó là nền văn minh sông Indus, không hề lưu lại các công trình đồ sộ vượt khỏi
sự tàn phá của thời gian. Nếu muốn tìm kiếm các kiến trúc lâu đời nhất của nước
Ấn thì cũng chỉ là các trụ đá ghi khắc chỉ dụ của triều đình và một vài bảo
tháp do vua Azoka (A-dục) thiết kế và xây dựng vào thế kỷ thứ III trước Tây
Lịch. Các sử gia phải bó tay không biết phải giải đoán như thế nào về sự im
lặng mênh mông trên đây của thời cổ đại trong thung lũng sông Hằng. Một số lớn
các sử gia, học giả và các nhà khảo cổ Tây Phương cho rằng không có gì đáng để
thán phục và ngưỡng mộ đối với nền văn minh Ấn Độ trước thời kỳ của vua A-dục
cả. Quả đây là một sự đánh giá hết sức nông cạn và thiển cận, thật vậy có thể
là họ chẳng bao giờ tìm hiểu về kho tàng khổng lồ của kinh sách Phật giáo.
Ngoài một nền tư tưởng có một không hai của nhân loại thì kho tàng kinh sách đó
còn là cả một nguồn tư liệu về lịch sử, triết học, văn hóa, xã hội của các thời
kỳ trước khi đế quốc đầu tiên của Ấn Độ là Maurya do ông nội của vua Azoka là
Chandragupta Maurya thành lập vào hậu bán thế kỷ thứ IV trước Tây Lịch.
Chỉ cần đơn cử một vài sự kiện cũng đủ cho thấy là các học giả, sử gia và các
nhà khảo cổ Tây Phương không nhìn xa hơn những gì mà họ quan sát trực tiếp trên
thực địa. Tam Tạng Kinh (Tipitaka) gồm hơn mười ngàn bài kinh, tức là các bài
giảng của Đức Phật mà các môn đệ của Ngài dã học thuộc lòng và lưu truyền hết
thế hệ này sang thế hệ khác suốt năm thế kỷ trước khi được ghi chép bằng chữ
viết. Chẳng phải đấy là kết quả mang lại từ một sức cố gắng tập thể phi
thường, một gia tài tư tưởng vô giá của một con người siêu việt, một kỳ quan to
lớn và độc đáo nhất của nhân loại không hề có trong các nền văn minh khác hay
sao? Nếu nhìn vào lâu đài của trí tuệ đó, thì thử hỏi ngôi đền đổ nát
Parthenon, các kim tự tháp Ai Cập, Maya, vạn lý trường thành có so sánh được không,
hay chỉ là những di tích không còn giữ được một công dụng nào mà chỉ để du
khách mua vé vào xem?
Dầu sao qua tầm nhìn của các sử gia, các nhà xã hội học, ngôn ngữ học, triết
gia và cả các nhà khoa học thì những gì mà sắc tộc Aryan đã mang vào thung lũng
sông Hằng cũng đã nhào nặn ra cả một nền văn minh cho nước Ấn sau này: đó là
ngôn ngữ có nguồn gốc Ấn Âu (Indo-European language), bản kinh Vệ-đà (Veda) và
sự quản lý xã hội bằng cách phân chia con người thành bốn giai cấp. Chúng ta sẽ
lần lượt tìm hiểu về ba gia tài này của nước Ấn.
Ngôn ngữ Ấn-Âu
Ngôn ngữ có nguồn gốc Ấn Âu mà sắc tộc Aryan đã mang vào thung lũng sông Hằng
từ thế kỷ XIV trước Tây Lịch dần dần biến dạng và trở thành các ngôn ngữ địa
phương, tiếng Phạn là một trong số các ngôn ngữ này và đã được dùng để chuyển
tải các kinh Vệ-đà. Tiếng Phạn xưa lại tiếp tục biến dạng và trở thành một ngôn
ngữ cải tiến hơn từ thế kỷ thứ V hay thứ IV trước Tây Lịch dùng chuyển tải giáo
lý của đạo Bà-la-môn và sau đó là Phật giáo kể từ thế kỷ thứ I trước Tây Lịch.
Tiếng Pa-li được hình thành từ tiếng Phạn vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây
Lịch và thường bị hiểu lầm là ngôn ngữ mà Đức Phật đã sử dụng để thuyết giảng.
Điều này không đúng vì tiếng Pa-li và cả tiếng Phạn cải tiến đều được hình thành
sau thời đại của Đức Phật. Khi còn tại thế Đức Phật thuyết giảng bằng một ngôn
ngữ địa phương gọi là ardhamagadhi của quê hương Ngài trong xứ Magadha
(Ma-kiệt-đà) và vào thời kỳ đó cũng chưa có chữ viết.
Chữ viết xuất hiện trong thung lũng sông Hằng vào khoảng thế kỷ thứ III trước
Tây Lịch dưới triều đại của vua Azoka (A-dục), thể loại chữ viết này gọi là ngữ
tự brahmi. Ngoài ra cũng còn một thể loại ngữ tự khác là karoshti được mang vào
thung lũng sông Hằng từ các vùng tây bắc Ấn (Pakistan-Afghanistan ngày nay).
Tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng ngữ tự karoshti được hình thành trong các
vùng miền nam nước Ấn. Dầu sao thì ngữ tự bhrami cũng giữ một vai trò quan
trọng hơn nhiều vì đã trở thành ngữ tự chung cho cả nước Ấn, và sau đó
cũng đã biến dạng và trở thành ngữ tự của các nước Á Châu như Miến Điện,
Sri-Lanka, Lào, Kampuchea, Thái Lan, Java, Bali, v.v.., ngoại trừ Việt Nam,
Triều Tiên và Nhật Bản thì du nhập và vay mượn ngữ tự Trung Quốc trước khi biến
ngữ tự này thành ngữ tự riêng của mỗi nước. Trong trường hợp Việt Nam thì ngữ
tự tượng hình của Hán ngữ được sửa đổi và biến thành chữ Nôm và sau đó tiếng
Việt Nam được chuyển tải bằng các chữ cái trong tiếng La Tinh. Tuy nhiên theo
các nhà ngôn ngữ học thì chữ Nhật và Triều Tiên sau này ngoài gốc tiếng Hán ra
cũng có một vài nét vay mượn từ ngữ tự bhrami. Chữ viết của các nước trong vùng
Hy-mã Lạp-sơn như Nepal, Tây Tạng, Khotan... đều có nguồn gốc ngữ tự bhrami. Sự
kiện trên đây cho thấy Phật giáo hình thành và phát triển ở Ấn sau đó được truyền
bá sang các nước Đông Nam Á đều nhờ vào ngữ tự bhrami, tiếng Phạn và tiếng
Pa-li, ngoại trừ các nước Triều Tiên, Nhật bản và Việt Nam chịu ảnh hưởng Hán
ngữ. Nêu lên điều này để cho thấy rằng sự phát triển và truyền bá Giáo Huấn của
Đức Phật không những đã mang lại chữ viết, văn hóa và lịch sử cho toàn thể bán
lục địa Ấn độ mà còn cho một số lớn các nước Á Châu khác.
Ngoài ra cũng có giả thuyết cho rằng Phật giáo trước khi được đưa vào Việt Nam
bằng Hán ngữ và từ phương bắc, cũng đã du nhâp từ phương Nam bằng đường biển,
thế nhưng dường như không thấy ảnh hưởng trực tiếp nào của tiếng Phạn trong văn
hóa và ngôn ngữ Việt Nam (?).
Kinh Vệ-đà, đạo
Bà-la-môn và Ấn giáo
Gia tài thứ hai mà sắc dân Aryan đã mang vào
thung lũng sông Hằng là bản kinh Vệ-đà (Veda), nguyên nghĩa là sự "Quán
thấy" hay sự "Hiểu biết". Vệ-đà là một bản kinh tín ngưỡng xưa
nhất của nhân loại. Các học giả Tây Phương cho rằng kinh này được trước tác và
truyền khẩu từ thế kỷ XV trước Tây Lịch tức là trước sự xuất hiện của Đức Phật
chín thế kỷ. Kinh Vệ-đà gồm nhiều phiên bản dưới thể văn vần do đó cũng được
xem là các "vần thơ" đầu tiên của nhân loại. Kèm theo kinh Vệ-đà còn
có một số bài tụng với các câu thần chú mang tính cách thiêng liêng và mầu
nhiệm, và chính từ điểm này mà các học giả Tây Phương xem các kinh Vệ-đà biểu
trưng cho cả một tôn giáo gọi là đạo Vệ-đà (Vedism).
Đạo Vệ-đà hình dung ra một sức mạnh thiêng liêng, nhất thể (monism) mang tầm
vóc vũ trụ, và toàn thể vũ trụ thì vận hành theo các chu kỳ xoay vần bất tận.
Việc thờ phụng sức mạnh đó gồm có các nghi thức cúng dường và cầu xin. Sức mạnh
thiêng liêng trong đạo Vệ-đà dần dần được hình dung cụ thể hơn qua một Đấng
Thiêng Liêng, siêu hình và tuyệt đối gọi là Vị Trời Brahma. Sự xuất hiện của Vị
Trời Brahma đưa đến sự hình thành của đạo Bà-la-môn (Brahmanism) với sự xuất
hiện của kinh Brahmana. Dưới góc nhìn này thì khái niệm độc thần trong đạo
Bà-la-môn được hình thành trước Ki-tô giáo của chúa Giê-su khoảng 1 000 năm!
Sau đó sức mạnh toàn năng của Vị Trời duy nhất là Brahma mang tính cách siêu
hình và trừu tượng trong đạo Bà-la-môn lại được tiếp tục cụ thể hóa "tích
cực" hơn nữa để biến Vị Trời Brahma thành ba vị khác nhau: Brahma, Civa
(Shiva), Vishnu, kéo theo sự xuất hiện của một lô các vị thần linh khác, biến
đạo Bà-la-môn trở thành đa thần và được gọi bằng một tên khác là Ấn giáo
(Hindouism) với sự xuất hiện của các kinh Upanisad. Ấn giáo lại
tiếp tục biến đổi với sự xuất hiện của nhiều tông phái khác nhau: Shivaism (thờ
thần Shiva), Visnhuism (thờ thần Vishnu)..., và các phương pháp tu tập đa dạng
mang các sắc thái "triết học" khác nhau, như Vedanta, Yoga, Tantra,
v.v.
Sư phân chia giai cấp
trong xã hội
Nếu kinh Vệ-đà đã mang lại cho thung lũng sông Hằng một tín ngưỡng lâu đời nhất
của nhân loại thì bên trong bản kinh này cũng đã nêu lên sự phân chia con người
thành bốn giai cấp hay đẳng cấp, chận đứng mọi sự tiến bộ của cả một xã hội mà
ảnh hưởng vẫn còn hết sức nặng nề ngày nay. Ý niệm về bốn giai cấp được xác
nhận và triển khai sau đó trong "Bộ luật Manu" (Manu Smriti/Manava
Dharma Shastra/Law of Manu). Manu chỉ là một nhân vật mang tính cách biểu
trưng, một vị thánh nhân siêu phàm hướng dẫn và điểu khiển dân tộc Aryan. Bộ
luật này hình dung ra quá trình và các quy tắc vận hành của vũ trụ và đưa ra
các giới luật chi phối con người. Bộ luật được trước tác vào khoảng 1 000 năm
trước Tây Lịch và sau đó tiếp tục được bổ khuyết thêm cho đến thế kỷ thứ V
trước Tây Lịch, gồm khoảng 100 000 câu thơ với hơn 1 000 chương. Cũng xin nêu
thêm một chi tiết là bộ luật nãy đã được dịch ra các ngôn ngữ Tây Phương từ thế
kỷ XIX với nhiều phiên bản khác nhau. Theo bộ luật Manu sự phân chia con người
thành bốn giai cấp là một "quy luật" thiêng liêng: giai cấp cao nhất
là những người Bà-la-môn (Brahmana) tức là các vị giáo sĩ, tuần tự sau đó là
các chiến binh (Kshatriya), thương nhân, nông dân, thủ công (Vaishya), nô bộc
(Shudra). Ngoài bốn thành phần này cũng còn một giai cấp nữa nhưng không được
xếp hạng, thuộc bên lề xã hội, không có một quyền hạn nào cả, đó là giai cấp
tiện dân (Panchama). Con người sinh ra trong giai cấp nào thì phải gánh chịu số
phận mình trong giai cấp đó, không thay đổi được.
Đức Phật xuất hiện trong khung cảnh của nền văn minh chi phối bởi kinh Vệ-đà,
Bộ luật Manu, đạo Bà-la-môn và một xã hội phân biệt giai cấp trên đây. Vậy Giáo
Huấn và tư tưởng của Đức Phật liên hệ và đã vượt lên trên nền văn minh đó như
thế nào, và đã mang lại một giải pháp nào cho con người trong thời đại của Ngài
và cả cho chúng ta hôm nay?
Sự xuất hiện của Đức
Phật
Đức Phật tên là Siddhartha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm) là một nhân vật lịch sử,
ra đời trong bối cảnh của nền văn minh sông Hằng trên đây năm -566 và tịch diệt
năm -486 (trước Tây Lịch). Cũng xin lưu ý là có nhiều khác biệt về năm sinh và
tịch diệt trên đây của Đức Phật đối với Phật giáo Tây Tạng và Trung Quốc, kể cả
giữa một số các học giả Tây Phương, tuy nhiện các mốc thời gian trên đây được
chấp nhận rộng rãi nhất.
Dù sinh ra đời chinh xác vào năm nào thì trước hết Ngài vẫn là một con người,
cha mẹ Ngài cũng là những con người. Sự hiện diện của Ngài trên hành tinh này
rất thật, thật như chính chúng ta hôm nay, tức là không mang một chút huyền
thoại nào cả. Giáo Huấn của Ngài được xây dựng bằng lý trí, sự hiểu biết và các
kinh nghiệm thực tiễn do chính Ngài đã thực hiện được cho mình. Nền Giáo Huấn
đó không dựa vào đức tin, sự cầu khẩn hay một sự đổi chác bằng lễ vật với một
vị thần linh nào, cũng không dựa vào một sức mạnh hay một Đấng Thiêng Liêng
nào, mà duy nhất chỉ hướng vào con người, vì con người và thuộc tầm tay con
người.
Vậy nền giáo huấn duy nhất đó là gì, đã mang lại những gì mới lạ và khác hơn so
với tất cả các nền văn minh cổ đại khác, mà ngày nay vẫn còn tiếp tục chinh
phục hằng trăm triệu người trên hành tinh này? Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu xa hơn
về nền giáo huấn này trong Phần III.
Trên đây chúng ta đã có dịp lướt qua sự xuất hiện và diễn tiến của các nền văn
minh cổ đại trên hành tinh này sau một đêm tối kéo dài 200 000 năm của suốt
thời tiền sử. Thật khó cho chúng ta biết được là trong đêm tối đó con người có
được tự do hay không? Thượng Đế và vô số các vị thần linh đủ loại đã làm gì
trong thời gian đó, hay cũng chỉ xuất hiện và cùng thức dậy với chúng ta vào
một buổi hừng đông cách nay 7 000 năm trên trên địa cầu này? Sự tự do xuất hiện
từ lúc nào, từ trong đêm tối của thời tiền sử hay vào một ngày nào đó gần đây
hơn trong các xã hội tân tiến của chúng ta ngày nay?
Y niệm về sự tự do
trong các nền văn minh cổ đại
Nếu duy nhất chỉ nêu lên các tiến bộ mang lại từ các nền văn minh cổ đại nhưng
lại không nói gì đến các sự xung đột và chiến tranh liên tiếp xảy ra trong các
nền văn minh đó thì quả là một sự thiếu sót. Trong số tất cả các sinh vật sống
trên hành tinh này thì con người "thông minh" nhất nhưng cũng hung
hăng nhất, gây chiến nhiều nhất, và cũng là các sinh vật cùng một chủng loại
giết nhau nhiều nhất, gây ra đau thương và tác hại cho nhau nhiều nhất. Ngoài
trí thông minh phải chăng đây cũng là một trong các điểm khác biệt nổi bật nhất
giữa con người và các sinh vật khác? Lý do phải chăng là vì "bản năng sinh
tồn" của con người quá mạnh mà lại còn được thúc đẩy và hỗ trợ bởi trí
"thông minh"?
Từ khi con người biết thuần hóa thú vật để sai khiến và ăn thịt thì ngay sau đó
con người cũng bắt đầu thuần hóa chính con người để biến một số đồng loại trở
thành những kẻ nô lệ phục vụ cho mình. Nguyên nhân sâu xa và trực tiếp nhất là
sự tham lam đưa đến tình trạng tranh dành, xung đột, chiến tranh và tình trạng
khai thác con người và biến con người trở thành nô lệ cho con người.
Người tiền sử bắt đầu đánh nhau bằng tay chân, gậy gộc, sau đó là bằng cung
tên, dao mác, và gần đây hơn là bom hạt nhân. Chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt
từ các thời kỳ cổ đại cho đến ngày nay. Vậy trong bối cảnh nô lệ, chiến
tranh, bảo vệ lãnh thổ, mở rộng biên thùy đó của các thời kỳ cổ đại, "ý
niệm về sự tự do" - ít nhất là theo cách hiểu của chúng ta ngày nay - phát
sinh từ lúc nào và ở đâu? Nếu bất thần nêu lên câu hỏi này với các sử gia,
triết gia, các nhà khảo cổ, nhân chủng học, thần học..., thì có thể là sẽ khó
cho họ tìm thấy nhanh chóng được lời giải đáp, bởi vì "ý niệm về sự tự
do" dường như chỉ là một phát minh khá mới mẻ trên dòng lịch sử tiến hóa
của nhân loại. Trong suốt thời gian diễn ra các nền văn minh cổ đại dường như
con người chỉ cướp đoạt sự tự do của nhau dưới mọi hình thức nhưng không hề ý
thức được cung cách hành xử đó của mình. Phải chăng ý niệm về sự tự do là một
sự tiến bộ xảy đến rất chậm và cũng rất muộn trên dòng tiến hóa của lịch sử
nhận loại.
Tuy nhiên nếu chịu khó tra cứu thì chúng ta cũng sẽ thấy rằng các triết gia Hy
Lạp cũng đã từng nói đến sự "tự do" vào thế kỷ thứ III trước Tây
Lịch, thuật ngữ "Eleutheria" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự
"tự do" thế nhưng vào thời bấy giờ thì thuật ngữ này cũng chỉ có
nghĩa là "một vùng đô thị hay một thành phố không bị chiếm đóng bởi một
sức mạnh bên ngoài", do đó ý nghĩa của thuật ngữ này gần với ý nghĩa của
chữ "độc lập" hơn. Ý nghĩa của thuật ngữ "tự do" chỉ mở
rộng và trở nên trừu tượng rất muộn sau này và dần dần mang thêm khía cạnh hay
tính cách "cá nhân" như ngày nay. Các triết gia Hy Lạp Aristotle,
Platon... cũng có nói đến sự "tự do", nhưng đấy cũng chỉ là các ý
nghĩ siêu hình mang tính cách tự suy diễn (speculation), chẳng tạo ra một tác
động nào hay một ảnh hưởng nào trong xã hội, các sự tự suy diễn của các triết
gia ấy cũng đã rơi vào sự quên lãng của ký ức của con người từ lâu, các triết
gia ngày nay cũng không mấy khi lật lại những trang sử lâu đời ấy. Vậy chúng ta
hãy thử tiếp tục tìm hiểu thêm xem ý niệm về sự tự do đã được hình thành như
thế nào trên dòng tiến hóa của nhân loại sau sự xuất hiện của các nền văn minh cổ
đại trên đây, trước khi trở thành một thứ lý tưởng cao quý nhất của con người
trong các xã hội ngày nay.
Phần II
Y niệm về sự tự do trong các thời kỳ cận đại
Sau khi bước vào thời đại lịch sử thì nhân loại tiến bộ rất nhanh, thế nhưng
đồng thời lịch sử cũng thuật lại không biết bao nhiêu trận chiến khốc liệt, sự
hình thành và sụp đổ của không biết bao nhiêu đế quốc. Phía sau những sự hình
thành và sụp đổ đó chỉ là chết chóc, đau thương, không hề phản ảnh một sự tự do
nào cả, ít nhất là một sự tự do đúng nghĩa của nó, nêu lên một cách can đảm và
không xấu hổ. Sự khác biệt nổi bật nhất giữa các nền văn minh cổ đại và các nền
văn minh cận đại là vào thời cổ đại con người giết hại và tàn phá, gây tổn
thương cho nhau nhưng không nêu lên một khẩu hiệu tự do nào cả, trái lại trong
các thời kỳ cận đại và cả ngày nay con người vẫn tiếp tục tước đoạt sự tự do
của nhau và đồng thời thì hô hào sự tự do rất hăng.
Ý niệm về sự tự do dường như xuất hiện trong các xã hội tiến bộ và văn minh
trước hơn các xã hội chậm tiến, và nếu nhìn vào thế giới ngày nay, thì không
phải là khó để nhận thấy là các nước Tây Phương đã đạt được các tiến bộ và một
nền văn minh hiện đại sớm nhất và họ cũng đã ảnh hưởng và áp đặt nền văn minh
đó của họ trên các phần đất khác trên địa cầu. Do đó chúng ta cũng sẽ đặc biệt
hướng vào thế giới Tây Phương để tìm hiểu ý niệm về sự tự do đã được hình thành
từ lúc nào, như thế nào và được tôn trọng ra sao trong thế giới đó.
Ý niệm về sự tự do vào
thời Trung Cổ
Sau khi nền văn minh Hy Lạp bắt đầu suy tàn vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch
và sau đó là sự tan rã của đế quốc Macedonia của Alexander the Great
(A-lịch-sơn Đại Đế) vào thế kỷ thứ II trước Tây Lịch thì các đạo quân La Mã nổi
lên xâm chiếm toàn thể Âu Châu và các vùng chung quanh ĐịaTrung Hải tạo ra đế
quốc La Mã, đánh dấu sự chấm đứt của nền văn minh cổ đại mở ra cho Âu Châu một
giai đoạn lịch sử mới. Giai đoạn lịch sử này bắt đầu bằng một thời kỳ chuyển
tiếp đặt dưới sự đô hộ và cai trị của đế quốc La Mã từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ
thứ V, trước khi bước vào thời kỳ Trung Cổ kéo dài suốt 10 thế kỷ sau đó song
song với sự tan rã của đế quốc La Mã.
Sau khi xứ Judaea của người Do Thái nằm trong lãnh thổ của đế quốc Macedonia
trước đây bị người La Mã tàn phá vào thế kỷ thứ I thì họ tản mát khắp nơi, mang
theo tín ngưỡng của mình là Do Thái giáo (Israelism) với thánh kinh là Torah
gồm năm quyển bằng tiếng Hebreu (tiếng Do Thái). Trong số những người Do Thái
mất nước đó và cũng tại xứ Judaea của họ, một tôn giáo mới là Ki-tô giáo
(Christianism) đã được sáng lập với vị giáo chủ là Jesus Christ (Chúa Ki-tô,
còn gọi là Chúa Giê-su) với quyển kinh thánh là Bible. Cũng xin nhắc thêm là
Hồi giáo (Islam) được hình thành muộn hơn nhiều vào thế kỷ VII, với vị giáo chủ
là Muhammad (570-632) và kinh thánh là Koran (Qur'ran). Hồi giáo tự cho mình là
một tôn giáo toàn cầu, công nhận tất cả các vị tiên tri và thần khải trước đó
của Do Thái giáo và cả Ki-tô giáo: Noah, Abraham, Moses, Jesus. Sở dĩ nêu lên
sự kiện này là vì tính cách quan trọng của nó, bởi vì cả ba tín ngưỡng độc thần
mang cùng một nguồn gốc trên đây đã làm biến đổi thật sâu xa xã hội con người
và cả bộ mặt của nhân loại.
Trở lại với thế kỷ thứ I thì sau khi Ki-tô giáo được thành lập đã lan rộng khắp
nơi trong lãnh thổ của đế quốc La Mã kể từ thế kỷ thứ II, đánh bạt các tín
ngưỡng đa thần đã có từ trước tại các nơi này, sau đó độc chiếm và đè nặng lên
toàn thể Âu Châu kể từ thế kỷ thứ IV trước khi bước vào thời kỳ Trung Cổ bắt
đầu từ thế kỷ thứ V. Trong thời gian chuyển tiếp trên đây cũng như từ trước đó
qua các nền văn minh cổ đại, ý niệm về sự tự do không hề thấy ai nói đến, ngoại
trừ vài triết gia Hy Lạp trên đây.
Bước sang thế kỷ thứ V mở đầu thời kỳ Trung Cổ, Ky-tô giáo thừa hưởng từ đế
quốc La Mã cũng bắt đầu ăn sâu vào các sinh hoạt xã hội, văn hóa và tư tưởng
của toàn thể Âu Châu. Trong bối cảnh tín ngưỡng độc thần và độc chiếm đó và
dưới các thể chế quân chủ, quả hết sức khó cho con người thời bấy giờ hình dung
ra một ý niệm nào về sự tự do theo cách hiểu của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên
các học già, triết gia và các nhà thần học thời bấy giờ cũng đã bắt đầu thắc
mắc và tìm hiểu sự "tự do" là gì, thế nhưng tất cả mọi cố gắng của họ
cũng chỉ xoay quanh giữa sự lệ thuộc vào ý chí của Thượng Đế (God'will, Desire
of God) và sự tự do hành động (self determination), một sự lưỡng nan và bất
định không giải quyết được giữa một bên là lý trí (reason) và đức tin (faith)
và một bên là sự tự nguyện (self-will, volition, free-will/volonté,
libre-arbitre). Sự giằng co đó không nói lên một sự tự do nào cả, không đưa đến
một khái niệm thiết thực nào, nếu không muốn nói là một sự bế tắc và ràng buộc
trước một xã hội quản lý bởi hai sức mạnh thần quyền và vương quyền, thế nhưng
đấy lại là bầu không khí triết học của thời Trung Cổ ở Âu Châu.
Thật ra các triết gia và học giả đúng nghĩa của nó - tức không bị chi phối bởi
tín ngưỡng - dường như cũng không có mấy ai. Vị giáo sĩ, triết gia và thần học
lỗi lạc và tiêu biẻu nhất trong giai đoạn lịch sử này của Ấu Châu là Thánh
Thomas d'Aquin (1224-1274), ông cho rằng "sự tự do là một hình thức cứu
rỗi linh hồn xuyên qua ý chí của Thượng đế". Nói chung ý niệm về sự tự do
trong thời kỳ Trung Cổ cũng chỉ lanh quanh giữa các khái niệm về linh hồn và ý
chí của Thượng Đế. Trong tiếng Anh thời Trung Cổ (Middle Ages) còn được gọi là
"Dark Ages" (Thời kỳ Tối Tăm). Bước sang thời Phục Hưng cởi mở hơn,
người ta mới bắt đầu nhận thấy các học giả và triết gia nêu lên các ý niệm
phóng khoáng hơn đôi chút về sự tự do.
Các tiến bộ và đổi mới
trong thời Phục Hưng
Sự chuyển tiếp từ thời Trung Cổ sang thời Phục Hưng (Renaissance) được đánh dấu
bởi các biến cố và sự kiện trọng đại: trước hết là các phong trào đổi mới về
tín ngưỡng, sau đó là các phát minh khoa học và các tiến bộ kỹ thuật. Phát minh
nổi bật nhất - có thể nói là quan trọng nhất đã làm thay đổi bộ mặt của Âu Châu
- là ngành in ấn, giúp cho việc truyền thông và quảng bá tư tưởng được rộng rãi
hơn. Năm 1454 Johannes Gutenberg người Đức lập nghiệp ở Pháp, phát minh ra cách
in bằng các chữ rời đúc bằng kim loại. Cách làm giấy thì học được của người Hồi
giáo một thế kỷ trước đó. Thánh Kinh là quyển sách được in đầu tiên. Sách in và
các tư liệu ấn loát đã mang lại nhiều cải tiến cho toàn thể Âu Châu về đủ mọi
mặt, từ xã hội, tôn giáo, tư tưởng, văn chương, triết học, cho đến nghệ
thuật..., tạo ra một bầu không khí cởi mở và phóng khoáng hơn so với thời Trung
Cổ khép kín và ngột ngạt. Ngoài ra cũng có rất nhiều phát minh khoa học và kỹ
thuật dần dần đưa đến thời đại Tân Tiến ngày nay.
Phát minh quan trọng thứ hai sau ngành in ấn là kỹ thuật đóng tàu. Tàu thuyền
lần đầu tiên được đóng với kích thước to lớn, đầu và đuôi tàu là hai phần
chính, cao và nặng giúp cho tàu ít bị chòng chành có thể đi xa trên biển. Bản
đồ thế giới dần dần được phác họa chính xác hơn. Dù rằng địa cầu là một khối
hình cầu đã được biết từ thời văn minh cổ đại Hy Lạp và cả Ai Cập thế nhưng
trong quảng đại quần chúng Âu Châu người dân chỉ mới bắt đầu khám phá ra
"mặt đất" là một quả cầu hình tròn một cách "cụ thể" nhờ
Christophe Colomb (Kha Luân Bố) một nhà hàng hải người Ý vượt tàu về hướng tây
nhưng lại khám phá ra "Ấn Độ" (ngày nay là Mỹ Châu) năm 1492 (cuối
thời Trung Cổ đầu thời Phục Hưng), và Fernand de Magellan người Bồ Đào Nha dùng
tàu đi vòng quanh thế giới năm 1522. Ông rời Tây Ban Nha tháng 8 năm 1519 với
năm tàu buồm và thủy thủ đoàn gồm 237 người. Đến Phi Luật Tân năm 1521, trong
một trận xáp chiến với thổ dân trên đảo ông bị trúng tên và mất tại đây. Trong
số 5 tàu ra đi chỉ còn một tàu trở về được Tây Ban Nha tháng 9 năm 1522, trong
số thủy thủ đoàn ra đi chỉ còn 18 người sống sót. Một khám phá khác của nhà
toán học và thiên văn học người Ý là Galileo (1564-1642) cho rằng địa cầu vừa
xoay quanh nó và vừa xoay quanh mặt trời, khám phá này đã khiến ông xuýt mất
mạng, chẳng qua là vì thời bấy giờ nhà thờ La Mã và quảng đại quần chúng vẫn cứ
nghĩ rằng Trời thì phải ở "trên đầu" và mặt đất thì ở "dưới
chân" vững vàng như bàn thạch và "mặt đất" thì không xoay quanh
mặt trời.
Trên phương diện tín ngưỡng thì lần đầu tiên Thánh Kinh được dịch ra nhiều ngôn
ngữ khác nhau của các nước Âu Châu, thay vì trước đó bắt buộc phải bằng tiếng
La Tinh, là ngôn ngữ thiêng liêng và chính thức của Ki-tô giáo. Sự cởi mở đó
tạo ra một bầu không khí thuận lợi đưa đến sự hình thành của đạo Tin Lành
(Protestantism) năm 1517, thế nhưng nguyên nhân chính yếu và cụ thể manh nha từ
thời Trung Cổ là thoát ra khỏi quyền uy và sự chi phối của Toà Thánh La Mã.
Trên phương diện tư tưởng thì trong thời kỳ Phục Hưng bắt đầu xuất hiện đông
đảo các học giả, triết gia cũng như các nhà thần học, họ bắt đầu quan tâm đến ý
niệm về sự "tự do", thế nhưng sự nhận định và các quan điểm của họ
vẫn còn chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng độc thần bao trùm toàn bộ tư tưởng và văn
hóa trong xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên các quan điểm và sự nhận định của họ
cũng đã bắt đầu ngày càng trở nên phóng khoáng hơn, nói chung là dần dần tách
ra khỏi thuyết định mệnh (determinism) của tín ngưỡng độc thần đè nặng trong
suốt thời kỳ Trung Cổ, đó là tình trạng lưỡng nan không giải quyết được giữa sự
tự nguyện (free will) và ý muốn của Thượng Đế (God's will). Đây cũng là tình
trạng chung phản ảnh tư tưởng và các quan điểm triết học của các nhà thông thái
trong thời Phục Hưng và cả cận đại như: Decartes, Kant, Spinosa, Leibniz,
Schopenhauer, Bergson, v.v. Gần đây hơn, các triết gia của thế kỷ XX chẳng hạn
như Edmund Husserl và Jean-Paul Sartre còn chủ xướng cả một chủ thuyết mới và
khá lạ lùng là "Hiện Tượng Học về sự Tư Do" (Phenomenology of
Freedom) thoát ra khỏi sự chi phối của Ki-tô giáo.
Xin trích ra đây một câu phát biểu của triết gia và khoa học gia René Décartes
(1596-1650) như sau "Tôi không hề phiền trách Thượng Đế đã không
ban cho tôi một khả năng tự nguyện nào, hay một ý nguyện (self-will) rộng rãi
và hoàn toàn, chẳng qua là vì tôi có thể cảm nhận được nó một cách hết sức trừu
tượng và bao quát, đến độ tương tự như nó không hề bị giới hạn bởi một ranh
giới nào cả" ("Je ne puis pas me plaindre que Dieu ne m'a
pas donné un libre arbitre, ou une volonté assez ample et parfaite, puisqu'en
effet je l'expérimente si vague et si étendue, qu'elle n'est renfermée dans
aucune borne" - trích trong tập chuyên luận về triết học "Méditations
métaphysiques"của René Décartes, năm 1641, chương IV). Qua câu trên
đây thật hết sức rõ ràng là sự giằng co giữa Thượng Đế và sự tự do trong nền
triết học thời Trung Cổ vẫn còn nguyên, thế nhưng cũng đã trở nên "nhẹ
nhàng" hơn, và đặc biệt hơn nữa là câu trên đây của Décartes phản ảnh một
thể dạng cảm nhận của nội tâm, gián tiếp nói lên khía cạnh mang tính cách
"cá nhân" của sự tự do vượt ra khỏi ý nguyện của Thượng Đế.
Dầu sao thì các chủ thuyết triết học cũng như các hệ thống tư tưởng trên đây dù
có "thông thái" và "cao siêu" đến đâu đi nữa thì cũng chỉ
là các trò "biện luận" hay "tự biện" mà thôi! Nếu suy tư
thật sâu xa thì câu trên đây của Décartes quả là rỗng tuếch! Vì thế nếu chúng
ta chưa có dịp đọc, hoặc đã từng đọc hay được học vể triết học ở nhà trường
nhưng không hiểu hết thì cũng không phải là điều hệ trọng lắm và nhất là không
nên ái ngại cho cái trí thông minh của mình, bởi vì đối với những con người
bình dị như chúng ta, điều quan trọng hơn cả là các khía cạnh thực tế của sự
"tự do", trực tiếp liên hệ đến cuộc sống của mỗi người chúng ta và
các tập thể tạo ra một xã hội, một dân tộc tạo ra một quê hương. Đấy mới thật
sự là những gì đáng để quan tâm và tìm hiểu. Vậy khái niệm về sự "tự
do" mang tính cách phổ quát và thực tế theo quan điểm, trình độ hiểu biết
và trong tầm tay của chúng ta ngày nay đã xuất hiện từ lúc nào và được tôn
trọng ra sao trong xã hội?
Lý tưởng tự do và thực
tế xã hội
Ý niệm về sự tự do - dù chưa được định nghĩa thật rõ rệt - đã được một vài
triết gia Hy Lạp nói đến trước nhất từ thời cổ đại, sau đó là các triết gia và
các nhà thần học của các thời kỳ Trung Cổ và Phục Hưng, thế nhưng tất cả cũng
chỉ là những hình thức biện luận triết học hay thần học, vướng mắc bởi tín
ngưỡng và sự tự biện, hoàn toàn xa vời với thực tế xã hội. Mãi đến cuối thế kỷ
XVIII, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nước Pháp nêu lên một cách cụ thể
và trực tiếp sự Tự Do trong "Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền" (Déclaration
des Droits de l'Homme et du Citoyen) năm 1789, đánh thức lương tâm con người và
đánh dấu một bước tiến thật ngoạn mục trên dòng tiến hóa của nhân loại - ít
nhất là trên phương diện tư tưởng và xã hội.
Nếu ngược trở về xa hơn thì mười ba năm trước đó, tức là vào năm 1776, mười ba
tiểu bang nước Mỹ cũng đã đưa ra bản "Tuyên ngôn Độc Lập" (The
unanimous declaration of the thirteen united States of America) mà
sau này người ta thường gọi tắt là "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hiệp Chủng
Quốc" (United States Declaration of Independence). Dù chỉ là một bản tuyên
ngôn chính trị mang một chủ đích thu hẹp hơn so với "Bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền" của Pháp, thế nhưng trong đó cũng có nêu lên một lý tưởng thật cao cả
là sự Tự Do, bằng một câu thật đanh thép: "Tất cả mọi con người
đều được sáng tạo bình đẳng với nhau" (All
men are created equal).
Gần đây hơn, tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập sau thế chiến thứ II cũng đã
đưa ra bản "Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền" (The Universal Declaration
of Human Rights/la Déclaration universelle des droits de l'homme) năm 1948,
trong đó hai chữ Tự Do được nêu lên ngay trong câu thứ nhất của phần mở đầu. Lý
tưởng này sau đó được lập lại và khẳng định trong điều khoản thứ 3 của bản
tuyên ngôn. Tóm lại qua ba bản tuyên ngôn trên đây - của nước Pháp, Hoa Kỳ và
Liên Hiệp Quốc - chúng ta thấy rằng Tự Do là một cái gì đó "rất
thật", mang một giá trị thiêng liêng, một lý tưởng nào đó trên phương diện
xã hội, chính trị và tín ngưỡng, thế nhưng trên thực tế thì như thế nào?
Trước hết chúng ta thấy rằng tổ chức Liên Hiệp Quốc chỉ là một tổ chức mang một
tên gọi rất kêu thế nhưng không có thực quyền gì cả: nói rất hay nhưng không ai
nghe. Vậy chúng ta sẽ đặc biệt tìm hiểu sự tôn trọng nhân quyền của Pháp và Hoa
kỳ là hai trong số các nước văn minh và tự do nhất thế giới khi hai nước này
long trọng đưa ra hai bản tuyên ngôn nhân quyền của họ.
H.1: "Sự tự do hướng dẫn dân
tộc" (La Liberté guidant le peuple)
Một trong các bức họa nổi tiếng nhất của Pháp,
nói lên niềm hãnh diện của cả một dân tộc
(Họa sĩ Eugène Delacroix, 1798-1864, vẽ năm
1830)
Lý tưởng tự do và thực
tế xã hội
Trên đây chúng ta đã có dịp tìm hiểu về các tiến bộ khoa học và kỹ thuật cũng
như sự cởi mở trên phương diện tư tưởng và truyền thông trong thời Phục Hưng
giúp Âu Châu thoát ra khỏi thời Trung Cổ. Trong bối cảnh bùng dậy đó của sự
"tự do", chúng ta cũng sẽ chỉ chọn và tìm hiểu về hai khía cạnh tiến
bộ: trước hết là sự cởi mở trên phương diện tâm linh đưa đến sự hình thành của
Tin Lành giáo, sau đó là các tiến bộ kỹ thuật giúp người Âu Châu đóng được các
con tàu đi biển để khám phá ra thế giới.
Sự cởi mở về tín
ngưỡng đưa đến sự hình thành của Tin Lành giáo
Ngành in ấn giúp phổ biến các thông tin thuộc mọi lãnh vực: tư tưởng, lịch sử,
khoa học, kỹ thuật, văn hóa và cả tín ngưỡng, và đã mở ra cho Âu Châu cả một
bầu không khí cởi mở, phản ảnh một sự "tự do" nào đó, khác hẳn với
thời Trung Cổ trước đó. Thánh Kinh được phổ biến rộng rãi và bằng nhiều thứ
tiếng, và nhất là không còn phải chép tay như trước nữa. Chính yếu tố này đã
khiến cho Âu Châu phải đối đầu với một sự chuyển hướng trầm trọng về đức tin
tôn giáo ngay vào đầu thời kỳ Phục Hưng. Sự chuyển hướng này là một biến cố
trọng đại đưa đến sự hình thành của Tin Lành giáo và sau đó là các cuộc xung
đột và một tình trạng chia rẽ trầm trọng xảy ra trên toàn thể Âu Châu.
Ngay từ thế kỷ thứ XIV tức cuối thời Trung Cổ và sau đó khi mới bắt bước vào
thời Phục Hưng, các phong trào cải cách tôn giáo đã bắt đầu thành hình trong
giới Ki-tô giáo La Mã, một tổ chức tôn giáo độc quyền thiết đặt bởi đế quốc La
Mã trước đó. Người chủ xướng sự cải cách quan trọng nhất là Martin Luther
(1483-1546) tu sĩ Ki-tô giáo và cũng là một nhà thần học người Đức, ông chống
lại một số giáo điều trong Thánh Kinh và các đường hướng áp đặt bởi nhà thờ La
Mã. Hai điểm bất đồng quan trọng nhất là việc thờ phụng Đức Mẹ Đồng Trinh và
các vị Thánh Thần khác, sau đó là cách mua chuộc sự khoan hồng của Chúa Trời
bằng sự ngoan ngoãn, các việc từ thiện và hành hương, giúp mình không bị đày
xuống hỏa ngục. Quan điểm của ông được nhiều người tán đồng và ủng hộ, bên
trong nước Đức và cả nhiều nơi khác bên ngoài nước Đức, chẳng hạn như các nước
Bắc Âu và đặc biệt là Anh Quốc. Năm 1521 Giáo Hoàng Leo X trong một lá thư
chính thức ra lệnh cho Martin Luther phải từ bỏ các quan điểm chống lại nhà thờ
La Mã, thế nhưng thật hết sức bât ngờ Martin Luther công khai đốt bỏ lá thư này
và đoạn giao với nhà thờ La Mã, năm sau ông bị tòa án La Mã chính thức khai trừ
ông ra khỏi Giáo Hội. Năm 1525 ông cưới một nữ tu sĩ Ki-tô giáo, sinh ra sáu
người con.
Người thứ hai chủ xướng sự đổi mới là Jean Calvin (1509-1564) tu sĩ Ki-tô giáo,
luật gia, thần học người Pháp, ông ủng hộ quan điểm của Martin Luther, không
chấp nhận cách hành lễ mi-xa của Ki-tô giáo La Mã, không dùng tiếng La Tinh để
làm lễ mà đề nghị dùng các tiếng địa phương của các tín đồ, việc quản lý nhà
thờ thì do tín đồ bầu lên, không tùy thuộc vào tòa thánh La Mã. Trên phương
diện giáo lý thì người tín đồ không nên lo âu về những gì sẽ xảy ra sau cái
chết mà chỉ nhất thiết tôn vinh Chúa Trời ngay trong hiện tại và làm việc phải.
Ông rút ra khỏi Giáo Hội Ki-tô La Mã năm 1534 và trốn sang Thụy Sĩ, sau đó
chính thức trở thành mục sư Tin Lành năm 1538, hai năm sau ông cưới một góa phụ
đã có hai con, sinh thêm một đứa thứ ba nhưng chết yểu.
Các quan điểm đổi mới trên đây của Luther và Calvin đưa đến sự thành lập Giáo
Hội Tin Lành, một Giáo Hội Ki-tô cải cách chủ trương nhiều sự đổi mới về giáo
lý cũng như nghi lễ, kể cả cách xây cất nhà thờ. Thánh Kinh (Bible) trực tiếp
đại diện cho thần quyền, không cần đến một người nào hay một tổ chức nào làm
đại diện. Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Thế duy nhất làm trung gian giữa Thượng
đế và con người. Người theo Tin Lành giáo không được cầu khẩn Đức Mẹ Đồng Trinh
hay bất cứ một vị thánh nào khác. Con người là tội lỗi, không thể được cứu rỗi
bằng các hành động tốt mà duy nhất bằng hồng ân của Chúa Trời. Đối với nghi lễ
thì chỉ giữ lại hai trong số bảy nghi thức hành lễ của Ki-tô giáo La Mã: phép
Rửa Tội và tưởng niệm bữa ăn cuối cùng - bánh mì và rượu vang - của Chúa Giê-su
trước khi bị bắt (The Last Supper/Tiệc Ly). Các nghi lễ phải dùng ngôn ngữ địa
phương của mỗi xứ giúp tín đồ có thể hiểu được, v.v. Đạo Tin Lành sau đó
lại biến dạng không ngừng làm phát sinh ra không biết bao nhiêu "tông
phái", "chi phái", tùy địa phương, bối cảnh chính trị và người
đứng ra "cải tổ". Ngày nay Tin Lành giáo trở nên vô cùng phức tạp
nhất là trên đất Mỹ nơi mà sự "tự do tôn giáo" trở thành cả một sự ám
ảnh trong xã hội, không những được tự do tôn giáo mà có quyền sáng chế ra tôn
giáo tùy thích nếu có người theo. Trở lại với thời Phục Hưng thì sự hình thành
của Giáo Hội Tin Lành đã mang lại hậu quả và tình trạng nào cho toàn thể Âu
Châu: các cuộc chiến tranh tôn giáo triền miên kéo dài ba thế kỷ!
H.2: Cảnh thảm sát dân
chúng theo đạo Tin Lành vào ngày thánh Barthélemy: 24 tháng 8 năm 1572
tại Paris, và sau đó lan ra khắp nước Pháp. Đây là một trong các trang sử đen
tối nhất của nước Pháp.
H.3: Các đạo quân Tây Ban Nha (theo Ki-tô giáo
La Mã) thảm sát dân chúng theo Tin Lành giáo tại thành phố Ouderwater Hòa Lan
(năm 1575): một trong các cảnh thảm sát của một trận chiến kéo dài 80 năm
(1568-1648) giữa hai nước này.
Nếu các cuộc thánh chiến Thập Tự Chinh của thời Trung Cổ diễn ra tại Âu Châu
lan sang các vùng Cận Đông xa xôi suốt gần hai trăm năm (1095-1291) đã để lại
những vết thương thật sâu với nhiều ngôi làng chỉ còn trẻ con, phụ nữ và những
người già yếu, thì trong gần ba thế kỷ (1524-1704) chiến tranh tôn giáo vào
thời Phục Hưng tại Âu Châu, nhiều ngôi làng không còn người nào sống sót.
Khởi đầu là các cuộc nổi dậy của nông dân theo Tin Lành giáo tại Đức năm 1524,
nơi mà đạo Tin Lành đã được hình thành, cũng xin nhắc thêm là một phần nước Đức
thời bấy giờ thuộc vào lãnh thổ của một đế quốc mênh mông theo Ki-tô giáo La Mã
là Tây Ban Nha và các thuộc địa của nước này rải rác khắp Âu Châu, tất cả đặt
dưới quyền cai trị của Hoàng đế Charles Quint, vừa là vua Tây Ban Nha vừa mang
tước hiệu Hoàng đế La Mã. Các cuộc xung đột lan sang Thụy Sĩ năm 1529 và trở
thành nội chiến tại đây: các quận lỵ (cantons/có thể xem như các tỉnh lỵ hay
các địa phương tự trị) theo Ki-tô giáo La Mã đánh nhau với các quận lỵ theo Tin
Lành giáo.
Năm 1549 sau khi Giáo Hội Anh giáo tức là Tin Lành giáo của nước
Anh (Anglicanism) phổ biến Quyển kinh Cầu Nguyện (Book of Common Prayer) nêu
lên các nghi thức hành lễ mới và các bài kinh cầu nguyện do Giáo hội này đưa
ra, thì dân chúng trong vùng cực nam lúc đó còn trung thành với Ki-tô giáo La
Mã nổi loạn (Prayer Book Rebellion) chống lại hoàng triều Anh Quốc. Trong cuộc
dẹp loạn này có một trận chiến gọi là Battle of Clyst Heath, xảy ra ngày 5
tháng 8 tại ngôi làng Clyst Heath trong tỉnh Devon, trong trận chiến này vị chỉ
huy các đạo quân hoàng triều là Bá tước John Russell đã ra lịnh trói 900 tù
binh và hành quyết cùng một lượt bằng lưỡi lê và cắt cổ.
Năm 1559 dân chúng theo Tin Lành giáo nổi loạn tại Scotland. Đồng thời dân
chúng miền bắc nước Anh giáp ranh với Scotland, theo Ki-tô giáo La Mã cũng nổi
loạn (Rising of the North) năm 1569. Đến năm 1585 thì nước Anh theo Tin Lành
giáo và Tây Ban Nha theo Ki-tô giáo La Mã gây chiến với nhau, các cuộc xung đột
chỉ chấm dứt năm 1604.
Chiến tranh tôn giáo trên đất Pháp vừa phức tạp lại vừa lâu dài nhất, tám cuộc
chiến kế tiếp nhau diễn ra triền miên trong suốt hậu bán thế kỷ XVI. Trận chiến
thứ nhất bùng lên năm 1562 và trận cuối cùng chấm dứt năm 1598.
Bước sang thế kỷ XVII chiến tranh vì tín ngưỡng lan tràn khắp nơi, bùng lên
trong các nước Bắc Âu, Đông Âu và cả Tây Âu. Các cuộc xung đột tiếp diễn liên
tục từ năm 1618 đến 1648 - lịch sử Âu Châu gọi các cuộc xung đột này là trận
chiến Ba Mươi Năm (Thirty Years' War) mang lại thật nhiều đau thương và đổ vỡ
cho toàn thể Âu Châu trong suốt tiền bán thế kỷ này. Các cuộc xung đột giữa các
nước lân bang với nhau như Anh Quốc, Scotland, Ái Nhĩ Lan thì kéo dài từ năm
1639 đến1651 (Wars of the Three Kingdoms).
Dầu sao thì sự hận thù cũng nguôi dần, trên đất Pháp các cuộc xung đột cuối
cùng đã xảy ra tại các vùng Cevennes và Languedoc miền nam nước Pháp dưới triều
đại của vua Louis XIV. Những người nông dân theo Tin Lành bất mãn sau khi vua
Louis XIV ban hành "Chỉ dụ Versailles" (Edit de Versailles) cấm đạo
Tin lành năm 1685. Chỉ dụ này đi ngược lại với "Chỉ dụ Nantes" do vua
Henri IV đã ký trước đó năm 1598 bảo đảm các quyền hạn tín ngưỡng, dân sự và
chính trị cho những người theo Tin Lành giáo. Sau khi chỉ dụ Versailles được
phổ biến thì các người theo Tin Lành giáo bị cưỡng bức phải cải đạo và phải
theo Ki-tô giáo La Mã, thế nhưng phần đông vẫn lén lút giữ đạo hoặc rời đi các
nơi khác, nhất là Thụy Sĩ theo Tin Lành Giáo. Thế nhưng tức nước vỡ bờ, các cuộc
xung đột nổ bùng ngày 24 tháng 7 năm 1702. Ngày 16 tháng năm 1704, phe nổi loạn
thua phải thương thảo và đầu hàng nhưng với điều kiện là được ân xá và ra đi
khỏi nước Pháp. Thế nhưng cũng chưa yên, trên thực tế các cuộc xung đột lẻ tẻ
thỉnh thoảng vẫn xảy ra và chỉ thật sự chấm dứt năm 1710. Thống kê các cuộc nổi
dậy cuối cùng này ở miền nam nước Pháp cho thấy phe nổi loạn có 2 000 người
chết trận, 1 000 người bị xử tử bằng cách treo cổ, hoặt cột hai tay hai chân
vào một chiếc bánh xe và quay cho đến chết, 2 000 người bị tù giam hoặc xung
vào quân ngũ, hoặc bị đày xuống tàu để làm phu chèo.
Các cuộc xung đột cuối cùng có tầm vóc to lớn hơn giữa các nước Pháp, Anh, Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha trực tiếp hay gián tiếp vì lý do tín ngưỡng cũng chấm dứt
sau đó vào năm 1713. Thật ra trên thực tế tình trạng ngược đãi và đàn áp người
theo Tin Lành giáo vẫn ngấm ngầm tiếp diễn khắp nơi và chỉ thật sự chấm dứt kể
từ năm 1787.
Sở dĩ dài dòng để cho thấy cái giá của sự tự do tín ngưỡng, và hậu quả phát
sinh từ một nguyên nhân thật sâu xa là tư tưởng cách mạng và sự đổi mới một số
giáo điều của một triết gia và nhà thần học. Vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu thêm
thế nào là sự tự do và lý tưởng đó đã được hình thành qua một quá trình như thế
nào, và có một giải pháp nào để thực hiện lý tưởng ấy hay không?
Ý niệm về sự tự do và
lối thoát nào cho con người?
Tín ngưỡng phát sinh rất sớm song song và gắn liền với các nền văn minh cổ đại,
tương tự như một thành phần tự nhiên và cần thiết cho sự tiến hóa của xã hội
con người. Nguyên nhân làm phát sinh ra tín ngưỡng thường là sự sợ hãi trước
những gì xảy ra trong thiên nhiên mà con người không hiểu nguyên nhân, và bản
năng sợ chết chi phối bên trong nội tâm mình. Mỗi nền văn minh cổ đại đều có
những tín ngưỡng riêng, thế nhưng hầu hết đều được xây dựng dựa vào các huyền
thoại phát sinh từ trí tưởng tượng ngày càng phong phú hơn của những người tiền
sử trên dòng tiến hóa của họ. Huyền thoại tạo dựng ra vô số thần linh đủ loại
phản ảnh những ước mong sâu kín hóa giải được những sự sợ hãi của mình. Các
hình thức tín ngưỡng tin vào sức mạnh của thật nhiều thần linh hay là một Thần
Linh duy nhất chỉ là một chi tiết thứ yếu.
Trên dòng tiến hóa, con người dần dần giải thích và hiểu được nguyên nhân của
một số hiện tượng trong thiên nhiên khiến họ bớt sợ hơn, các vị thần linh đối
với họ cũng bớt linh thiêng hơn và khó dọa nạt họ hơn. Đó là nguyên nhân đưa
đến tình trạng dần dần bị lỗi thời của các tôn giáo đa thần và cả độc thần. Dầu
sao cũng có một hiện tượng rất lạ là thường các tín ngưỡng đa thần chuyển thành
độc thần, thế nhưng cũng có một trường hợp tín ngưỡng độc thần trở thành đa
thần, đó là trường hợp của Ấn giáo khởi đầu là độc thần với kinh Vệ-đà và đạo
Bà-la-môn trước khi trở thành đa thần. Dầu sao thì việc thờ phụng nhiều vị thần
linh hay một Vị Thần Linh duy nhất đều giống nhau, tất cả cũng chỉ xoay quanh
các nghi thức hành lễ, các thứ lễ vật, sự cầu xin và ngoan ngoãn.
"Tự do tín ngưỡng" là một ý niệm, một nhu cầu phát sinh khi tín
ngưỡng trở nên đa dạng, sinh ra nhiều tông phái, chi phái... trên dòng tiến hóa
của xã hội. Trong thế giới hiện tượng tất cả đều biến chuyển và đổi thay, tín
ngưỡng không phải là một ngoại lệ, thế nhưng mọi sự đổi thay thường đưa đến sự
sợ hãi và các phản ứng tự vệ, bởi vì con người một mặt bám víu vào thói quen,
quyền lợi và các quan điểm của mình, một mặt cầu mong thoát ra khỏi những gì mà
mình không thích hay ghét bỏ tức là những gì đi ngược với các sự bám víu của
chính mình trên đây. Do đó dầu sự đổi thay theo chiều hướng này (đổi mới) hay
chiều hướng kia (bảo thủ) cũng đều gây ra khổ đau cho con người: xung đột,
chiến tranh, hận thù. "Tự do tín ngưỡng" chỉ là một tiêu đề, một nhãn
hiệu.
Dầu sao thì trong mỗi nền văn minh cổ đại thường cũng chỉ có một tín ngưỡng duy
nhất, do đó ý niệm về sự "tự do tôn giáo" không cần thiết và dường
như cũng không ai nghĩ đến. Nếu phải đối đầu với những sự đổi thay thì dường
như những người Phật giáo chấp nhận dễ dàng hơn bởi vì họ hiểu rằng vô thường
là một nguyên lý bất di dịch của thiên nhiên và sự sống. Chấp nhận sự đổi thay
không có nghĩa là chấp nhận định mệnh (determinism) mà chỉ có nghĩa là không lo
sợ quá đáng, bởi vì họ biết cách biến cải và chuyển hướng những sự đổi thay đó
theo những chiều hướng tích cực hơn.
Nếu chúng ta nhìn trở lại tấm tranh "Sự tự do hướng dẫn dân tộc"
của họa sĩ Eugène Delacroix (Hình 1) trên đây, thì tất chúng ta sẽ nhận thấy
rằng sự tự do đó đạt được bằng cách giẫm lên xác chết của kẻ khác - và biết đâu
các xác chết ấy cũng có thể là xác chết của những người đồng hương với mình -
không phải là một thứ tự do đúng nghĩa của nó. Người Phật giáo không chấp nhận
một sự tự do như thế bởi vì họ kính trọng sự sống, dù là sự sống của con người
hay bất cứ một chúng sinh nào. Sự tự do đạt được bằng cách một tay cầm cờ một
tay cầm súng chỉ là một sự lừa dối. Vậy chúng ta hãy nhìn vào tấm hình dưới
đây:
4: Vũng Tàu Việt Nam, ảnh chụp tháng tư 1975 -
Nhiếp ảnh gia Jack Cahill/Nhật báo Toronto Star (nguồn
https://www.techinasia.com/refugee-from-vietnam-to-uber-cto-thuan-pham)
Tấm hình cho thấy cảnh "đi tìm tự do" thế nhưng bằng một cách ngược
với bức tranh trên đây, có nghĩa là không nêu cao sự tự do bằng cách giẫm lên
xác chết mà là đem cái chết của chính mình thách đố với sự tự do. Dầu sao
"đi tìm tự do" cũng chỉ là một cách nói, một nhãn hiệu, một hình thức
tự biện và khoa trương nhằm bênh vực hay biện minh cho hành động của mình. Nếu
nhìn thật kỹ vào tấm hình trên đây thì chúng ta cũng có thể hình dung ra những
con người "chất phác" không nghĩ rằng nhà cửa, của cải, người thân,
mồ mả ông bà, cha mẹ và cả quê hương..., không có gì quý hơn sự "tự
do" mà chỉ vì quá sợ nên bồng bế nhau mà chạy thế thôi!"
Do đó sự tự do kể cả sự tự do tín ngưỡng cũng chỉ là một nhãn hiệu hay một hình
thức tự biện. Những sự tự do đó tự nó không có nghĩa gì cả. Dưới đây chúng ta
sẽ tiếp tục tìm hiểu các tiến bộ về kỹ thuật đóng tàu đã biến đổi Âu Châu như
thế nào?
Kỹ thuật đóng tàu và
phong trào buôn bán nô lệ
H.5: Chiếc tàu buồm (tái
tạo) Santa Maria (Thánh Maria) của Christophe Colomb (Kha
Luân Bố) đã khám phá ra Mỹ Châu vào cuối thế kỷ XV. Loại tàu này gọi là
caraque, đầu và đuôi tàu là hai phần nặng giữ thăng bằng cho cả con tàu. Chiếc
Santa Maria được hộ tống bởi hai tàu buồm khác nhỏ hơn, thon dài và nhẹ, gọi là
tàu caravel.
Johannes Gutenberg phát minh ra ngành in tạo ra một phương tiện phổ biến và
truyền thông rộng rãi mang con người đến gần nhau hơn, nhưng dường như cũng làm
hiện ra phía sau nó một nhu cầu là sự tự do suy nghĩ, phán đoán và sáng tạo.
Tin Lành giáo đã được hình thành trong khung cảnh cởi mở đó, thế nhưng thay vì
trút bớt sự "nhiệt tình" quá đáng về tín ngưỡng đè nặng trong thời
Trung Cổ thì đã mang lại không biết bao nhiêu đau thương và đổ vỡ. Vậy trong
lãnh vực khoa học và kỹ thuật các sự tiến bộ - đặc biệt là kỹ thuật đóng tàu -
đã mở ra cho Âu Châu một không gian rộng lớn, mang lại một phương tiện khám phá
những chân trời mới, thế nhưng trong bầu không gian rộng lớn đó và những chân
trời xa lạ đó có mang con người đến gần nhau hơn hay không?
Người Trung Quốc khám phá ra chiếc kim nam châm (từ tính) vào thế kỷ thứ II
trước Tây Lịch, nhưng chỉ là để dò tìm "long mạch" xây cất lăng mộ
cho vua chúa, phải chờ thêm nhiều thế kỷ sau đó - khoảng giữa các thế kỷ thứ IV
và VI - thì họ mới biết áp dụng để xác định phương hướng. Năm 751 dưới triều
đại nhà Đường tại các vùng chư hầu xa xôi về phía Tây, một cách chính xác là
tại phía nam hồ nước mặn Balkhach thuộc xứ Kazakhstan ngày nay, đã xảy ra một
trận chiến giữa các đạo quân Trung Quốc và Hồi giáo. Quân Trung Quốc thua to,
người Hồi giáo cướp được chiếc địa bàn. Gần bốn thế kỷ sau, trong đợt Thập Tự
Chinh lần thứ hai, người Âu Châu cướp được chiếc địa bàn của người Hồi giáo.
Một phát minh khác vào thế kỷ thứ I trước Tây lịch của người Trung Quốc có vẻ khá
tầm thường đó là chiếc bánh lái, thế nhưng lại vô cùng hữu hiệu trong việc lèo
lái thuyền bè. Người Hồi giáo học được chiếc bánh lái của người Trung Quốc, sau
đó vào thế kỷ XII người Âu Châu lại học được cách chế tạo và sử dụng chiếc bánh
lái của người Hồi giáo. Cũng xin nhắc thêm là từ hơn 5 000 năm trước người Ai
Cập cũng đã biết sáng chế ra thuyền bè di chuyển trên sông Nil nhưng chỉ biết
lái bằng chèo, tức là phải dùng sức người, hoặc cột chặt mái chèo vào đuôi
thuyền. Về việc dò tìm phương hướng thì trước khi có chiếc địa bàn phải chờ đêm
tối để định hướng nhờ vào vị trí các vì sao.
Các phát minh trên đây và sự khéo léo của người Âu Châu đóng được các con tàu
to lớn vào cuối thời Trung Cổ giúp họ vượt biển xa hơn và dễ dàng hơn. Thế
nhưng các con tàu đó lại được sử dụng vào các mục đích thật hết sức bất ngờ:
lùa bắt nô lệ, xâm chiếm thuộc địa và quảng bá đức tin. Các việc này đã làm
thay đổi cả bộ mặt của địa cầu, đưa đến tình trạng ngày nay. Dưới đây chúng ta
cũng chỉ tìm hiểu về việc lùa bắt nô lệ và một mô hình thương mại gọi là
"Thương mại tam giác" (Triangular Trade): Phi Châu (nơi cung cấp hàng
hóa), Âu Châu (thị trường) và Mỹ Châu (nơi tiêu thụ).
Năm 1484 Diego Cam nhà hàng hải Bồ Đào Nha nhận lãnh sứ mạng do vua Alphonse V
giao phó đã dùng tàu vượt xuống phía nam đường xích đạo, khám phá ra các vùng
ven biển xa xôi của lục địa Phi Châu, cửa sông Zair và xứ Congo ngày nay, mở
màn cho cả một kỹ nghệ lùa bắt và buôn bán nô lệ. Việc buôn bán theo mô hình
tam giác trên đây kéo dài hơn bốn thế kỷ - từ giữa thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX
- đã mang lại những cánh tay khai quang cho Mỹ Châu, sự phồn vinh cho Âu Châu,
và những vết thương lở loét cho Phi Châu. Thế nhưng xã hội con người quả là
phức tạp và khó hiểu, việc buôn bán nô lệ xảy ra trong một bối cảnh mà các xã
hội Âu Châu vừa tạo được cho mình một khung cảnh cởi mở và tiến bộ của thời
Phục Hưng, sau những đêm dài đen tối của thời Trung Cổ.
Các cuộc thánh chiến Thập Tự Chinh của thời Trung Cổ chính thức được xem là
chấm dứt năm 1272, thế nhưng trên thực tế các cuộc xung đột vẫn còn dai dẳng
cho mãi đến hậu bán thế kỷ XVI. Tóm lại những vết thương cũ chưa lành thì con
người lại tạo ra cho mình những vết thương mới. Một mặt ào ạt tạo ra phong trào
buôn bán nô lệ thật tấp nập, một mặt ngấm ngầm cải tổ tín ngưỡng đưa đến các
cuộc chiến tranh tôn giáo triền miên trong thời kỳ Phục Hưng.
Năm 1498 Christophe Colomb (Kha Luân Bố) khám phá ra Mỹ Châu, năm 1500 nhà hàng
hải Bồ Đào Nha Petro Alvares Cabral lần đầu tiên cặp tàu vào bờ biển xứ Brazil
ngày nay, mở ra những vùng đất mênh mông, "tự do" và mầu mỡ, tiếp đón
những người bị kỳ thị tôn giáo ở Âu Châu và cả những người di dân đủ mọi tầng
lớp ra đi từ lục địa này. Những người di dân cần đến cánh tay của người nô lệ để
khai quang và trồng trọt trên những mảnh đất trinh nguyên và bát ngát đó.
Trong phong trào buôn bán nô lệ (slave trade) thì nước Anh đứng đầu với 41,3%,
sau đó là Bồ Đào Nha 29,3% và Pháp 19,2%, hai nước Hòa Lan và Đan Mạch chia
nhau phần còn lại. Nước Tây Ban Nha có nhiều thuộc địa và cả một đội thương
thuyền to lớn, thế nhưng tinh thần tôn trọng tín ngưỡng rất cao, không trực
tiếp đứng ra lùa bắt nô lệ mà chỉ mua lại của người Bồ Đào Nha sau khi đã mang
về Âu Châu để đưa di các thuộc địa của mình, hoặc bán lại kiếm lời. Trên thực
tế việc buôn bán nô lệ không phải chỉ lanh quanh có thế mà thật ra toàn thể Âu
Châu đều tham gia ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp mà thôi. Chưa bao
giờ không khí thương mại ở Âu Chậu lại nhộn nhịp đến thế, mang lại sự giàu có cho
rất nhiều gia đình trung lưu và các tổ hợp thương mại. Tất cả các nước Âu Châu
có bờ biển đều ngấp nghé chen chân vào ngành thương mại mới mẻ và bất ngờ này
của thời Phục Hưng, kể cả các nước Bắc Âu như Na Uy, Thụy Điển và cả nước Nga,
thế nhưng các nước này không đủ kinh nghiệm và liều lĩnh để cạnh tranh với các
nước Anh, Pháp và Bồ Đào Nha. Thụy Sĩ không có bờ biển thì giữ tiền cho các con
buôn giàu có và hùn vốn với các tổ hợp chuyên chở và buôn bán nô lệ. Các sử gia
cho biết hơn 12 triệu nô lệ đã được đưa vào lục địa Mỹ Châu, phần lớn là để bán
cho nước Mỷ sau đó là Gia Nã Đại, phần còn lại được đưa đến các thuộc địa tại
Trung và Nam Mỹ. Tài nguyên mang về Âu Châu là các sản phẩm do người nô lệ canh
tác: đường, cà-phê, cacao, bông vải, thuốc lá, tiêu...
Thật ra việc thương mại của các con buôn không thể mang lại sự giàu có cho cả
một lục địa được mà phía sau còn phải cần đến sự khuyến khích và các chính sách
quy mô hơn do các chính phủ thời bấy giờ chủ trương. Chẳng hạn như trường hợp
nước Pháp, vua Louis XIII đưa ra một chỉ dụ chính thức cho phép buôn bán nô lệ
năm 1642. Năm 1685 vua Louis XIV lại đưa ra đưa ra cả một bộ luật về nô lệ gọi
là "Code Noir" (Black Code) với 60 điều khoản, theo đó người nô lệ
được quyền rửa tội, chăm sóc sức khỏe, chu cấp thực phẩm hằng tuần, hai bộ quần
áo mỗi năm, người nô lệ phải hoàn toàn tùng phục người chủ và là tài sản riêng
của người chủ; người chủ có quyền sử dụng theo ý muốn, trừng phạt, bán, chuyển
nhượng, có quyền làm cho các phụ nữ nô lệ mang bầu (engrosser/impregnate), v.v.
Các tàu chuyên chở nô lệ mỗi khi rời bến (trong khoảng thời gian từ năm 1784
đến 1786) được trợ cấp 40 đồng tiền livres mỗi tôn-nô (tonneau de
jauge/tonnage: sức chuyên chở của tàu, mỗi đơn vị tôn-nô tương đương với khoảng
2,83 thước khối, và giá trị đồng tiền livre vào thế kỷ XVIII là từ 0.4 đến 0.5g
vàng), khi quay về mỗi đầu người nô lệ bắt được sẽ được thưởng thêm từ 160 đến
200 tiền livres. Cũng xin nhắc thêm là các tiền lệ về trợ cấp và tiền thưởng
này bị hủy bỏ sau cuộc cách mạng Pháp năm 1789, thế nhưng giai đoạn này cũng là
giai đoạn cao điểm trong việc buôn bán nô lệ. Thuế nhập khẩu nô lệ tại các đảo
và các thuộc địa của Pháp tại Mỹ Châu lúc đầu là 20 livres mỗi đầu người, sau
hạ xuống là 10 livres và đến năm 1768 thì hoàn toàn được miễn thuế.
Kỹ nghệ ở Âu Châu nhờ phong trào buôn bán nô lệ đã phát triển ào ạt. Thành phố
Saint-Etienne của Pháp trở nên giàu có nhờ sản xuất súng đạn; thành phố Liège
của Bỉ và thành phố Birmingham của Anh nhờ sản xuất kiếm, gươm, dao găm; thành
phố Amsterdam của Hòa lan thì sản xuất thau chậu bằng đồng; Tây Ban Nha và các
nước Bắc Âu chuyên sản xuất các thanh sắt và các vật dụng linh tinh bằng sắt;
các nước Ba lan, Tiệp Khắc, Đức thì sản xuất các vật dụng bằng thủy tinh.
Các tài liệu do sử gia Hugh Thomas đưa ra năm 1997 cho biết tổng cộng có
13 triệu nô lệ bị bắt đưa lên tàu rời khỏi các bờ biển phía tây Phi Châu,
trong số này 11 320 000 đến được bờ bằng 54 200 chuyến tàu. Tùy theo thời điểm
từ 30% đến 49% sự sinh hoạt của các hải cảng Pháp Nantes, Bordeaux, La
Rochelle, Le Havre là dành cho việc thương mại nô lệ.
Tóm lại sau một ngàn năm sống trong lạc hậu, chiến tranh, bệnh truyền nhiễm,
đói kém, cuồng tín, Âu Châu vụt bước vào thời kỳ Phục Hưng cởi mở, tiến bộ
và... giàu có một cách bất ngờ. Thế nhưng nếu nhìn vào thân phận người nô lệ
thì chúng ta sẽ thấy gì?
Số phận của người nô
lệ
Các sử gia cho biết là tuổi thọ của người nô lệ trung bình kéo dài được thêm
mười năm sau khi bị bắt, lý do là vì quá kham khổ, thiếu ăn, bệnh tật, ngược
đãi và lạm dụng. Trong khi đó thì các thuộc địa ngày càng được mở rộng hoặc
được đánh chiếm thêm, tay người khai quang trở nên ngày càng hiếm. Các bộ lạc
sống dọc bờ biển phía tây Phi Châu không đủ cung cấp, người da trắng thời bấy
giờ thì lại không dám tiến sâu vào các vùng rừng rậm và thường phải nhờ các thủ
lãnh da đen lùa bắt những người đồng chủng từ các vùng sâu bên trong lục địa.
Các con buôn người Âu Châu phải mua lại, họ trả bằng súng, thuốc súng, kiếm, mã
tấu, rượu, các vật dụng bằng sắt, thủy tinh, các thứ linh tinh khác như gương
soi, các xâu chuỗi đeo cổ, vải vóc, mũ nón, dao, kéo, ổ khóa, các vỏ sò ốc (các
bộ lạc trong rừng thường sử dụng vỏ sò ốc thay cho tiền tệ), v.v. Các sử gia so
sánh một cách ví von các chuyến tàu chuyên chở các vật dụng trao đổi này trên
đường đến các bờ biển Phi Châu là các cửa hàng tạp hóa nổi. Cũng xin nhắc thêm
đây là lần đầu tiên khí giới sản xuất ở Âu Châu được đưa vào Phi Châu.
Con số tử vong của người nô lệ bị các lãnh chúa da đen bắt trong các vùng sâu
và dẫn ra đến bờ biến thì rất khó biết, tuy nhiên sử gia Chistopher Miller
(trong quyển The French Atlantic Triangle, Duke Univ. Press,
2008) cũng có nêu lên một trường hợp khá chính xác là tại bờ biển
Angola con số tử vong khi bị lùa bắt là 10%, trên đường trước khi cặp bến các
cảng Âu Châu là 25%, 10% đến 15% trong khi bị nhốt trong các lều (gọi là
barracon) trước khi đưa xuống tàu vượt Đại Tây Dương. Tổng cộng con số tử vọng
là từ 45% đến 50%. Cũng xin nêu lên một chi tiết là hoàng triều Pháp đưa ra một
sắc lệnh năm 1738 cấm giữ người nô lệ quá 3 năm trên đất Pháp.
Giá cả mua bán người nô lệ lên xuống tùy theo thời điểm. Sau đây là một thí dụ
điển hình: năm 1724, tại cửa sông xứ Senegal, 50 nô lệ được đổi bằng tiền và
một lô hàng như sau: 201 pataques (mỗi pataque trị giá bốn livres, chữ pataque
gốc tiếng tây Ban Nha, sau đó trở thành chữ piastre trong tiếng Pháp, người
Pháp dùng chữ này để gọi đơn vị tiền tệ do họ dặt ra tại Đông Dương là piastre
indochinoise, được sử dụng từ năm 1885 đến 1952, và người Việt Nam thì gọi là
đồng bạc). Trị giá đồng tiền livre vào năm 1724 là 0,124g vàng, do đó một
pataque có giá trị tương đương với 0.496g vàng), 1 trang sức bằng bạc và dây
đeo, 1 còi tù và, 5 khẩu súng, 8 cuộn dây thừng, 1,5 aune vải đỏ (mỗi aune dài
khoảng 1,19cm), 24 pintes rượu (mỗi pinte tương đương với khoảng gần một lít),
12 thanh sắt, 75 cân thuốc súng, 104 viên đạn chì, 225 aunes vải màu xanh dương
và đen, 69 aunes loại vải sản xuất ở tỉnh Rouen, 12 viên đá màu đỏ. Trị giá tất
cả tính ra tiền thời bấy giờ là 2 250 livres, như vậy là mỗi người nô lệ trị
giá là 45 livres (5, 58g vàng).
Những sự nghịch lý
trong xã hội
Buôn bán nô lệ là một hành động lộ liễu nhất cho thấy thái độ bất chấp sự kính
trọng nhân phẩm và sự tự do của con người, vậy đối với tín ngưỡng thì như thế
nào? Trong lãnh vực thương mại và sự lợi lộc thì tín ngưỡng chỉ là hậu cảnh mà
thôi. Những người tham gia vào việc buôn bán nô lệ thời bấy giờ thuộc tất cả
các tôn giáo. Các sử gia cho rằng đây là một sự hòa đồng lạ lùng và khá mỉa mai
vì chủ tàu và người chi vốn có thể là theo Ki-tô giáo La Mã hay Do Thái giáo,
thuyền trưởng có thể là theo Tin Lành, vị tuyên úy trên tàu có thể là một cố
đạo Tây Ban Nha dòng Dominican, v.v. Trong các Thánh Kinh của các tôn giáo trên
đây dường như không có điều khoản nào cấm đoán chế độ nô lệ (?), do đó các chủ
tàu tha hồ mượn tên các nhân vật trong các Thánh Kinh (Bible) như Abraham,
David, Salomon, hoặc tên các tông đồ của Chúa trong các quyển Phúc Âm (Gospels)
như Pierre, Luc, Paul, Jean, Philippe, v.v. để đặt tên cho các con tàu của họ.
Các chủ tàu cũng rất thích dùng tên các vị thánh như Saint-Esprit, Saint-Anne,
Saint-Joseph... để đặt tên cho các con tàu của mình.
Sở dĩ nêu lên chi tiết trên là để gợi lên cho chúng ta thấy bầu không khí nhộn
nhịp trong giới thương trường và tinh thần "hòa đồng" tín ngưỡng khá
thoải mái hiện ra với Âu Châu sau hơn một ngàn năm thánh chiến triền miên của
thời Trung Cổ, và các cuộc xung đột vì tín ngưỡng đang diễn ra trong thời Phục
Hưng. Thật vậy trong xã hội mỗi người lo phần mình: thương nhân thì buôn bán,
quân sĩ thì đánh nhau, các triết gia và các nhà thần học thì tìm cách định
nghĩa về sự tự do, các tu sĩ thì ban phép lành cho các chủ nhân và cả những
người nô lệ của họ.
Dường như sự hòa đồng rất tự nhiên và thoải mái đó không những xảy ra ở cấp bậc
dân gian mà còn ở cấp bậc quốc gia và quốc tế. Nước Pháp là nước lùa bắt và
buôn bán nô lệ đứng hàng thứ ba thế nhưng bản "Tuyên Ngôn Nhân Quyền"
long trọng đưa ra năm 1789 lại đúng vào giai đoạn cao điểm trong việc buôn bán
nô lệ là thế kỷ XVIII. Trong bản tuyên ngôn này, câu thứ nhất như sau: "Con
người sinh ra đều được [quyền] sống tự do và bình đẳng trên phương diện luật
pháp" (Les hommes naissent et demeurent libres et égaux en
droits), thế nhưng trước đó không lâu sắc lệnh năm 1777 cấm người da màu
đặt chân lên nước Pháp và một sắc lệnh năm 1778 cấm kết hôn với người da màu
(xin lưu ý đây là lần đầu tiên trong các nền văn minh Tây Phương thuật ngữ
"da màu" được sử dụng). Nếu nước Pháp đứng hàng thứ ba trong việc
buôn bán nô lệ thì nước Mỹ là nước mua và sử dụng nô lệ đứng hàng thứ nhất. Sự
mỉa mai lộ liễu nhất là nước Mỹ trong khi đó lại có tượng thần tự do to lớn và
cao nhất thế giới. Thật vậy trong lãnh vực thương mại không có gì là
"ngẫu nhiên" và "miễn phí" cả, tượng thần tự do là do nước
Pháp tặng cho nước Mỹ. Dưới một góc nhìn nào đó thì đấy cũng tương tự như một
món quà "khuyến mãi" mà các siêu thị tặng cho khách hàng thế thôi.
Nếu đặt sang một bên khía cạnh "mỉa mai" thì sự trao đổi đó là cả một
sự "hòa đồng" thân thiện.
Pho tượng bằng đồng to lớn này mang tên là "Sự tự do soi sáng cho
thế giới" (La Liberté éclairant le monde/Liberty Enlightening The
World) thế nhưng thông thường thì được gọi bằng một cái tên ít cầu kỳ hơn là
"Tượng thần Tự Do" (Statue de Liberté/Statue of Liberty). Tượng được
hoàn toàn thiết kế tại Pháp theo dự án do một luật gia và giáo sư một trường
đại học lừng danh nhất của Pháp đưa ra năm 1865. Tượng được thực hiện theo từng
phần một, sau đó được lắp ráp và dựng lên ở Mỹ trên một hòn đảo ngoài khơi Nữu
Ước mang tên là "'Hòn đảo Tự Do" (Liberty Island) và được xem là quà
tặng của dân tộc Pháp biếu cho dân tộc Mỹ nhân dịp kỷ niệm một trăm năm ngày
tuyên bố độc lập của nước này, và đã được khánh thành ngày 28 tháng 10 năm
1886. Gần đây hơn ngày 20 tháng 4 vừa qua (năm 2016) Ngoại trưởng Ngân Khố Hoa
Kỳ là Jack Lew tuyên bố "sẽ cho phát hành tờ giấy bạc 20 đô-la mang hình
của bà Harriet Tubman" (1822-1913) một phụ nữ da màu tranh đấu bải bỏ chế
độ nô lệ. Một nữ ứng cử viên Tổng Thống thuộc đảng Dân Chủ liền tuyên bố: "Bà
là một phụ nữ tranh đấu cho tự do! Tôi nghĩ rằng không có một sự lựa chọn
nào tốt hơn là chân dung của bà Harriet Tubman để in lên tờ giấy bạc 20
đô-la". Tờ 20 đô-la lại thường là tờ giấy bạc bị làm giả nhiều nhất.
Tóm lại sau 200 000 năm hiện hữu con người vụt đạt được những sự tiến bộ kỹ
thuật và khoa học thật ngoạn mục trong vòng chưa đầy 5 thế kỷ, và dựng lên một
pho tượng Tự Do khổng lồ cầm đuốc soi sáng tự do cho toàn thế giới. Phải chăng
đấy cũng chỉ là một cách ngoảnh mặt đi hay đánh lạc hướng trước cảnh con người
khai thác con người? Trong thế giới ngày nay việc buôn bán nô lệ đã bị cấm từ
lâu, nhiều quốc gia đã xây dựng được một thể chế dân chủ, thế nhưng con người
có tìm được sự tự do đúng nghĩa của nó hay không?
Sự tự do trong thời
cận đại
Sau thời Phục Hưng qua các phong trào di dân, buôn bán nô lệ và xâm chiếm thuộc
địa, người Âu Châu trở nên giàu có, tự do hơn, áp đặt văn hóa, tư tưởng, các
quan điểm xã hội và chính trị của họ trên toàn thế giới. Người ta không còn gọi
họ là người Âu Châu nữa mà gọi là người Tây Phương, và thế giới Tây Phương thì
gồm chung Âu Châu và các nước mới do họ lập ra như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Tân
Tây Lan... Đó là tình trạng toàn cầu hóa dưới ảnh hưởng của người Tây Phương.
Thế nhưng một phần lớn nhân loại - tức ngoại trừ những người trong thế giới Tây
Phương ra - thì lại rơi vào tình trạng hậu-nô-lệ và hậu-thực-dân, đau thương và
lở loét. Những con người nô lệ đội lốt độc lập và tự do nhan nhản khắp nơi.
H.6: Thành phố Harbin
(Cáp Nhĩ Tân) (ảnh Reuters/nhiếp ảnh gia Sheng Li
H.7: Công nhân đến
xưởng làm tại thành phố Cáp Nhĩ Tân (ảnh chụp ngày 21/10/2013, Reuters/China
Striner Network). [Công
nhân trong thời đại tân tiến ngày nay đến xưởng làm bằng xe đạp và xe gắn máy
trong một bầu không khí "tự do", không còn bị xích chân dưới các gầm
tàu ngột ngạt chờ cặp bến các nước tự do (ghi chú thêm của người viết)].
H.8: Ô nhiễm tại thành
phố Shenzhen (Thẩm Quyến), ảnh chụp ngày 25 thánh 4, 2015. (AFP, nhiếp ảnh gia
Fred Dufour/Nhật báo Le Monde ngày 14.08.2015)
H.9: Thời đại
hậu-tân-tiến (post-moderne) của Trung Quốc (nhật báo Le Monde, ngày 13.06.2010)
H.9: Những người nô lệ
đang ráp đồng hồ (trích từ một bài báo trong tạp chí Le Nouvel Observateur ngày
11 tháng 5, 2013 với tựa "Bangladesh: một xứ sở nô lệ cho người Tây Phương
trong thời đại tân tiến")
(nguồn:http://casimira.blogs.nouvelobs.com/archive/2013/05/10/bangladesh-le-pays-de-l-esclavage-moderne-des-occidentaux.html)
H.10: Một gia đình
người Bangladesh (ảnh chụp tại thủ đô Dacca, ngày 5 tháng 8 năm 2007, nhiếp ảnh
gia Manoocher Deghati/IRIN). Còn vô số những hình ảnh khác thật đau thương, thế
nhưng chúng ta cũng nên tránh phô bày vì lòng thương cảm và sự kính trọng con
người.
(nguồn:
https://www.irinnews.org/fr/report/85648/bangladesh-le-visage-moderne-de-l%E2%80%99esclavage)
Nhật báo Libération của Pháp ngày 17 tháng 11, 2014 trích đăng bản tin của hảng
thông tấn AFP cho biết theo thống kê do Tổ Chức Phi Chính Phủ (ONG) thì hiện
nay trên thế giới có gần 36 triệu nô lệ, đứng đầu là Ấn Độ (14,3 triệu), sau đó
là Trung Quốc (3, 2 triệu),
Pakistan (2,1)
Ouzbekistan (1,2), Nga (1,1),...
(nguồn:
http://www.liberation.fr/planete/2014/11/17/pres-de-36-millions-d-esclaves-dans-le-monde_1144709)
Thế nhưng cũng thật oái oăm là sự tự do trong thế giới Tây Phương dường như
cũng chỉ là những khẩu hiệu, những biểu tượng mà thôi. Chẳng phải là hiện nay
họ đang sống trong sự lo sợ hay sao? Sự sợ hãi chính là một hình thức mất tự
do. Các việc buôn bán nô lệ, xâm chiếm thuộc địa, hận thù tín ngưỡng,... dường
như đã tạo ra những con rắn ẩn nấp dưới gầm giường, ngày càng khó đuổi ra. Nước
Mỹ được xem là nước giàu có và tự do nhất thế giới, nhưng cũng là nước có nhiều
vũ khí nhất và tôi tân nhất để bảo vệ sự tự do ấy của mình. Đồng thời nước Mỹ
cũng là nước bán vũ khí đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau nước Nga, sau
đó là Trung Quốc, Pháp, Anh, Đức, Ý, Do Thái, Tây Ban Nha và Ukrania. Sản xuất
vũ khí để bảo vệ sự tự do của mình, bán vũ khí để người khác bảo vệ sự tự do
của họ, thế nhưng đấy cũng chỉ là cách trực tiếp tước đoạt sự tự do của nhau
bằng súng đạn và sự sợ hãi. Thật ra vũ khí cũng chỉ là phương tiện, nguyên nhân
sâu xa nằm thật sâu kín bên trong tâm thức con người.
Các nhà tư tưởng rất nhân bản trong thời Phục Hưng và cận đại như Martin
Luther, Karl Marx, Friedrich Engel là những người châm ngòi bằng tư tưởng của
mình - dù chỉ là vô tình hay gián tiếp - gây ra chiến tranh và xung đột để rồi
mang lại không biết bao nhiêu tàn phá và đau thương. Sau các cuộc xung đột và
chiến tranh triền miên trong các thời kỳ Trung Cổ và Phục Hưng, nhân loại lại
phải trải qua hai cuộc thế chiến trong tiền bán thế kỷ XX và một cuộc chiến
tranh lạnh và tranh đua vũ khí kéo dài gần suốt hậu bán thế kỷ này. Bước sang
thế kỷ XXI, hận thù và bạo tàn vẫn còn nguyên vẹn, chiến tranh đã thay đổi bộ
mặt để trở nên phức tạp hơn, thế nhưng các nguyên nhân sâu xa thì dường như
không có gì thay đổi. Trong bối cảnh đó những lời hô hào tự do, bình đẳng và
tôn trọng con người trong các Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Pháp, Hoa Kỳ và
Liên Hiệp Quốc cũng chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc mà thôi. Tự do có phải
là một thứ gì đó có thật hay không? Nếu có thì dường như con người chưa bao giờ
nắm bắt và chủ động được nó, trên phương diện cá nhân cũng như xã hội. Vậy thì
giải pháp nào sẽ giúp con người thoát khỏi sự sợ hãi, hận thù, chiến tranh, áp
bức, lường gạt hầu tìm thấy cho mình một sự tự dọ đúng nghĩa của nó?
Phần III
Sự Tự Do theo quan điểm Phật giáo
Qua các nền văn minh cổ đại trên đây chúng ta có thể nhận thấy sự tiến hoá của
con người hết sức đa dạng và phức tạp, thế nhưng dường như động cơ thúc đẩy ẩn
nấp kín đáo phía sau sự tiến hóa đó thì lại hết sức đơn giản, đó là các bản
năng sơ đẳng nhất mà tất cả các loài sinh vật đều có: sinh tồn, truyền giống và
sợ chết. Nhờ vào sự tiến hóa sinh học - não bộ phát triển... - con người dần
dần đạt được trí thông minh thật cao, thế nhưng thay vì sử dụng trí thông minh
đó để thực hiện một cái gì cao cả hơn thì lại sử dụng nó như là một lợi khí
thúc đẩy tối đa các bản năng của mình, đưa đến một tình trạng "tiến
bộ" vô cùng phức tạp và đa dạng - tất nhiên trong đó kể cả các hình thức
tín ngưỡng qua một số khía cạnh nào đó - mang tính cách tàn phá thật quy mô cho
con người và cả thiên nhiên. Chính trong tình trạng đó của xã hội, ý niệm về sự
"tự do" đã được hình thành, thế nhưng đồng thời thì con người cũng ý
thức được rằng sự "tự do" đó đã vượt khỏi tầm tay mình. Lý do thật
hết sức đơn giản: con người chỉ biết chạy theo và đuổi bắt các bản năng của
chính mình, gây ra một tình trạng xã hội bế tắc. Tóm lại các sự tiến bộ hay cải
tiến xã hội cũng chỉ là một cách lanh quanh tìm kiếm các phương pháp quản lý xã
hội như thế nào cho hợp lý trước các thúc đẩy bản năng của con người.
Phật giáo ngày nay qua một số góc cạnh nào đó dường như cũng vướng vào tình
trạng chung trên đây. Vậy giáo huấn nguyên thủy của Đức Phật là gì, có tùy
thuộc và nằm bên trong sự tiến hóa đó hay không, hay là một thứ gì khác có thể
giúp con người thoát ra khỏi tình trạng lẩn quẩn, lanh quanh tìm cách đối phó
với sự phức tạp và các xu hướng xã hội chi phối bởi sự thúc đấy của bản năng
hay không? Trước hết chúng ta hãy thử quay về với nền văn minh sông Hằng cách
nay 2 500 năm để tìm hiểu xem Đức Phật đã xuất hiện trong một bối cảnh như thế
nào và tại sao Ngài lại hy sinh tất cả những gì mình đang có: gia đình, tiện
nghi, danh vọng... để mong cầu tìm một lối thoát cho con người?
Sự xuất hiện của Đức
Phật
Siddharta Gautama là một vị hoàng tử đã từ bỏ tất cả để "đi tu" và
thành Phật. Thân phụ của Ngài là Suddhodana đứng đầu một bộ tộc, được bầu lên
làm vua một vương quốc nhỏ. Các học giả, sử gia, các nhà khảo cổ đều cho rằng
vào thời bấy giờ thành quách, cung điện cũng chỉ là những nhà cửa khiêm tốn,
chủ yếu cất bằng gỗ, tường và nền có thể là bằng gạch. Ngày nay các công cuộc
khai quật không tìm được một di tích nào khả dĩ cho thấy những lâu đài đồ sộ
hoặc những bức tường thành kiên cố. Cuộc sống đế vương cũng chỉ là những
sự tiện nghi của thời bấy giờ. Thế nhưng chúng ta thường tưởng tượng ra một
hoàng cung nguy nga, các thành quách kiên cố, và hoàng tử Siddharta thì bị vua
cha "nhốt" trong đó, không biết gì cả về xã hội bên ngoài, cho đến
một hôm trốn ra ngoại thành Ngài trông thấy những cảnh khổ đau: đói nghèo, già
nua, bệnh tật và cái chết. Những gì trên đây có thể là một sự phóng đại, nếu
không muốn nói là một cách tiểu thuyết hóa hay bi kịch hóa làm tăng thêm sự
quan trọng cho sự kiện "đi tu" của hoàng tử Siddharta.
Ngài là một người vô cùng thông minh, chẳng lẽ trong hoàng tộc chưa hề có ai bị
bệnh và chết và Ngài thì cũng chưa bao giờ biết ốm đau là gì để mà nhận thấy
những sự thật ấy. Thế nhưng tất cả những gì mà Ngài trông thấy trước đó không
gây ra cho Ngài một xúc động mãnh liệt và sâu xa nào cả, cho đến một hôm sau
khi tận mắt trông thấy những người ăn mày, già nua, rách rưới và bệnh tật, và ý
thức được số phận cuối cùng của con người là cái chết. Một xúc cảm từ bi mênh
mông vụt bùng lên trong lòng Ngài, mãnh liệt đến độ đã khiến Ngài từ bỏ tất cả:
vợ con, tiện nghi.và quyền lực, cả những lọn tóc trên đầu và đôi dép dưới chân,
đổi cả bộ quần áo của mình với một người ăn xin để được trở thành một người ăn
xin.
Cử chỉ đó và quyết tâm đó cho thấy Ngài đã là một vị Phật trước khi thành
Phật. Theo Phật giáo Theravada thì Siddharta Gautama là một hoàng tử như tất cả
các hoàng tử khác trước khi đạt được Giác Ngộ và thành Phật, theo Đại Thừa thì
Đức Phật đã là một vị Phật từ trước và đã hiện ra trong thế giới này qua thân
xác vô thường của một vị hoàng tử để cứu độ chúng sinh. Vậy nếu nhìn vào quyết
tâm trên đây của hoàng tử Siddharta Gautama đổi hạnh phúc của mình để thách đố
với khổ đau, bệnh tật, già nua và cái chết thì cả hai quan điểm trên đây đều
đúng, sự khác biệt chỉ là sáu năm gian khổ để làm gương cho chúng ta soi.
Đức Phật sinh ra trong một nền văn minh thật đặc biệt, thấm đượm tinh thần
phi-bạo-lực (tiếng Phạn ahimsa). Theo thiền sư người Pháp Pierre
Crépon trong quyển "Tôn giáo và Chiến tranh" (Les
religions et la Guerre, Albin Michel, 1991) thì khái niệm phi-bạo-lực
xuất hiện rất sớm trong các giáo phái khất thực và không nhà từ những thời kỳ
xa xưa của nền văn minh sông Hằng. Sự khắc khổ của những người tu hành trong
các giáo phái này là nhằm chống lại - hay ít ra cũng là đi ngược lại - chủ
trương hiến sinh của những người Bà-là-môn, là giai cấp cao nhất, có một cuộc
sống cao sang trong xã hội. Tuy nhiên phải công nhận rằng tinh thần phi-bạo-lực
dường như là nền tảng của toàn bộ Ấn giáo, bắt nguồn từ lâu đời trong kinh
Vệ-đà, có thể là từ thời kỳ văn minh của sông Indus, một nền văn minh mà các
nhà khảo cổ không hề tìm thấy một vết tích hung bạo nào. Gần đây hơn tinh thần
đó đã thể hiện qua một nhân vật lịch sử nổi tiếng của nước Ấn là Mahatma Gandhi.
Dầu sao nước Ấn ngày nay cũng là một nước mà tỷ lệ người dân ăn chay cao nhất
thế giới.
Chữ Ahimsa (Phi-bạo-lực) mang một ý nghĩa thật rộng
lớn, không phải chỉ là một thái độ hành xử mang mục đích chống lại những sự phi
lý và bất công trong xã hội theo cách hiểu thông thường, nhất là đối với người
Tây Phương, mà là một sự kính trọng tuyệt đối tư tưởng, ngôn từ, hành động và
sự sống của kẻ khác, sự kính trọng đó cũng trải rộng ra đối với tất cả chúng
sinh và sự sống. Phía sau sự kính trọng đó dường như tàng ẩn một ý niệm nào đó
về một sự tự do, khác hơn với các sự tự do mang tính cách hô hào và khoa trương
nhưng rỗng tuếch như đã thấy trên đây.
Tiền ngữ "a" trong chữ ahimsa có
nghĩa là "không làm", "không gây ra"; hậu ngữ "himsa" thì
có nghĩa là phiền toái, thiệt hại, tổn thương; do đó thuật ngữ "ahimsa" có
nghĩa là không gây ra một sự phiền toái, va chạm hay thiệt hại nào đối với tất
cả chúng sinh. Đức Phật xuất hiện trong một xã hội thấm đượm tinh thần đó. Cũng
xin nêu lên thêm là Ahimsa cũng là một trong năm lời nguyện
ước của những người theo đạo Ja-in, bốn lời nguyện ước kia là:Saty (kính
trọng sự thật), Asteya (kính trọng sở hữu của kẻ khác), Brahmacharya (sự
tiết dục - đối với người thế tục thì phải trung thành) và Aparigraha (sự
nghèo khó). Đạo Ja-in được hình thành trong thời đại của Đức Phật hoặc trước đó
không lâu.
Vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Tây Lịch trong các nền văn minh cổ đại đã
xuất hiện gần như đồng loạt rất nhiều nhà hiền triết, tại Trung Quốc có Khổng
Tử, Lão Tử; tại Hy Lạp có Heraclite, Pythagore...; tại Ấn Độ có Đức Phật,
Mahavira giáo chủ sáng lập ra đạo Ja-in. Thật ra vào thời bấy giờ trong thung
lũng sông Hằng, ngoài Đức Phật và Mahavira ra, còn có vô số các vị thầy khác ít
được biết đến hơn, mỗi vị đưa ra một giáo lý, ai thích giáo lý nào thì bước
theo vị thầy đưa ra giáo lý ấy. Thế nhưng tuyệt nhiên không có một sự kình
chống, ganh ghét hay xung đột nào xảy ra. Kinh sách cho biết Đức Phật từng
viếng thăm những người tu hành Ja-in và nêu lên những điều không đúng trong
giáo lý của họ. Nhiều người Bả-la-môn đến tham vấn Đức Phật và sau khi nghe
Ngài giảng họ xin được làm đệ tử của Ngài. Trong thung lũng sông Hằng tỏa rộng
một sự hòa đồng tâm linh thật hài hòa, phản ảnh tinh thần ahimsa (phi-bao-lực)
của xã hội Ấn trong thung lũng sông Hằng thời bấy giờ, trong khi các nền văn
minh khác ở các nơi khác thì nhất thiết chỉ chú trọng đến các công trình đồ sộ,
các huyền thoại và thần linh đủ loại. Tuy nhiên trong số các giáo lý của các vị
thầy trên đây chỉ có tư tưởng của Đức Phật là duy nhất được truyền bá ra khỏi
biên giới nước Ấn, tiếp tục được quảng bá và chinh phục được con người trong
thế giới ngày nay.
Những gì trên đây cho thấy Đức Phật là một con người sinh ra trong một bối cảnh
của một nền văn minh con người, thừa hưởng một bầu không khí hài hòa và
phi-bạo-lực của một xã hội con người trong thời cổ đại, thế nhưng đồng thời thì
Ngài cũng ý thức được sự hiện hữu trói buộc của con người không những trong xã
hội mà cả trong sự sống của họ nữa. Nhờ vào trí tuệ siêu việt và một lòng quyết
tâm vô song Ngài đã khám phá ra một lối đi giúp con người tự giải thoát ra khỏi
sự trói buộc mang tính cách hiện sinh đó. Sự giải thoát ấy chính là sự tự do
theo quan điểm Phật giáo. Vậy sự tự do đó là gì?
Ý niệm về sự tự do
trong Phật giáo
Như chúng ta đã thấy qua dòng lịch sử tiến hóa của nhân loại ý niệm về tự do
thật hết sức phức tạp và mơ hồ, dường như con người chưa bao giờ nắm bắt được
nó một cách thật sự, dù con người đã đưa ra các bản tuyên ngôn nhân quyền bảo
đảm tự do cho con người và dựng tượng thật cao để biểu trưng cho sự tự do đó.
Dầu sao thì tự do cũng có thể là một thứ gì đó có thật, thế nhưng nó ở đâu,
phải tìm nó như thế nào hay phải làm cách nào để thực hiện được nó?
Qua những gì trên đây thật hết sức rõ ràng là sự tự do nếu có thật thì nó không
hề được san sẻ đồng đều - dù chỉ là tương đối - giữa các quốc gia, giữa con
người, từ cá nhân đến tập thể, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, kể cả giữa
nam và nữ. Phật giáo quan niệm sự tự do khác hơn, vượt lên trên tất cả các điều
kiện và bối cảnh trên đây, có nghĩa là vượt lên trên xã hội, sự hiện hữu và cả
không gian lẫn thời gian. Sự tự do đó thật rộng lớn và tuyệt đối, thế
nhưng Phật giáo cũng định nghĩa sự tự do đó qua nhiều khía cạnh và cấp bậc khác
nhau. Chúng ta cũng chỉ có thể chọn ra một vài cách nhìn trước khi tìm
hiểu ý niệm về sự tự do mà Đức Phật đã nêu lên.
Sự tự do theo quan
điểm của một thiền sư
Kosen một thiền sư người Pháp, tên tục là Stéphane Thibaut, nêu lên hình ảnh
sau đây trong quyển "Zen, một thể dạng cách mạng của nội tâm" (Zen,
la révolution intérieur, L'oeil du tigre, 1997):
"Sự
tự do đích thật là một thứ gì đó hết sức tự nhiên. [...] Những người da đỏ
(trong nguyên bản là chữ indiens) gieo trồng ngũ cốc, rau trái, chăn nuôi bò
rừng (buffalo) và ngựa. Họ thừa hưởng tất cả những gì trong thiên nhiên chung
quanh họ, mọi sự xảy ra thật êm thắm.. Họ luôn phát lộ một sự kính trọng từ
trong thâm tâm và một sự cảm nhận sâu kín đối với tất cả những gì đang hiện
hữu, từ các ghềnh đá cho đến từng viên sỏi, v.v.
"Một hôm họ trông thấy những người da trắng đến, khai quang đất đai, tàn
phá quang cảnh của địa cầu: vung tay chặt tất cả, nhổ phăng tất cả và sau đó
thì trồng trọt thật ngay ngắn và thẳng hàng, tạo ra những thửa ruộng theo cùng
một khuôn mẫu như nhau. Những người da đỏ so sánh tình trạng này với một người
bỗng dưng bị đâm một nhát dao khi đang đi giữa đường. Họ nói với những người da
trắng như sau: "Các bạn không thấy sao? Các bạn đang gây ra thương tích
cho địa cầu, đang tàn phá nó. [...] Địa cầu rồi sẽ mang lại những điều bất hạnh
cho các bạn đấy". [...] Người da đỏ chưa bao giờ có một ý niệm nào về sự
tự do cả. Họ chỉ suy nghĩ bằng cách nhìn vào sựtương liên và tương tác giữa
mọi sự vật (trong nguyên bản là chữ interdependence) và sống
hài hòa với những gì đang hiện hữu chung quanh họ".
Qua câu chuyện trên đây, dường như các nền văn minh con người mà động cơ thúc
đẩy là các thứ bản năng, chỉ mang lại sự tàn phá và đổ vỡ cho hành tinh này mà
thôi. Thật vậy trong các xã hội tân tiến ngày nay người ta luôn nêu cao lý
tưởng bình đẳng và tự do, thế nhưng trên thực tế thì con người luôn tìm cách
tước đoạt sự tự do của nhau. Các bản tuyên ngôn nhân quyền cũng chỉ là các lời
hô hào, một thứ nhãn hiệu. Mỗi quốc gia đều có quân đội để bảo vệ sự tự do cho
xứ sở, một thứ tự do được bảo vệ bằng súng đạn. Các quốc gia pháp quyền đều có
luật pháp, cảnh sát, tòa án, nhà giam để bảo vệ sự tự do trong xã hội.
Các sự tự do trên đây tất nhiên không phải là một sự tự do đúng nghĩa của nó.
Sự tự do theo quan điểm của thiền sư Kosen phù hợp với sự chuyển động của vạn
vật và thiên nhiên hơn, sự tự do đó nói lên một sự hòa đồng và hội nhập giữa
con người và hiện thực, giữa sự sống và thiên nhiên.
Sự tự do theo
quan điểm của một nhà sư Tây Tạng
Theo quyển sách "Sự Tự Do đích thật và sự Quý Báu được sinh ra làm
người" (Perfect Freedom: The Great Value of Being Human,
Wisdom Publication, 1998) gom góp các bài giảng của nhà sư Tây Tạng Lama Zopa
Rinpoché tại Dharamsala Ấn Độ, tháng 9 năm 1984, thì sự tự do có tám thứ:
1- không sinh ra trong
cảnh giới địa ngục
2- không sinh ra trong
cảnh giới quỷ đói (preta)
3- không sinh ra trong
cảnh giới súc sinh
4- không sinh ra dưới
thể dạng một người man rợ (hung dữ, đần độn)
5- không sinh ra trong
cảnh giới thiên nhân (deva/sung sướng, sống lâu)
6- không sinh ra dưới
thể dạng một kẻ tà đạo (chủ trương các tà thuyết và tín ngưỡng sai lầm)
7- không sinh ra mà
không có đầy đủ giác quan (bị khuyết tật)
8- không sinh ra dưới
thể dạng một người điên rồ.
Sinh ra là một con thú thì không sao tu tập được. Sinh ra trong các cảnh giới
địa ngục, quỷ đói có nghĩa là rơi vào các hoàn cảnh tù tội, đói nghèo, chung
đụng với những người hung dữ và u mê thì sẽ khó tạo ra cho mình các điều kiện
thuận lợi để tu tập. Sinh ra trong các cõi bán thiên (asura/giàu sang, chức phận,
vua chúa, các kẻ quyền thế, lãnh đạo) hay thiên nhân (deva/các thánh nhân,
người thông minh, tài cao, xinh đẹp, khỏe mạnh, sống lâu) cũng không mang lại
các điều kiện thuận lợi giúp mình biết đến Đạo Pháp (Dharma) và đến gần với Đạo
Pháp. Sinh ra dưới các thể dạng hung dữ, điên loạn, khuyết tật, hoặc ở một nơi
mà Đạo Pháp không phổ biến thì việc tu tập lại càng khó hơn nữa. Thế nhưng nếu
không tu tập thì sẽ không sao mang lại cho mình sự giải thoát được và sự giải
thoát thì chính là sự tự do,
Sự tự do hay sự giải thoát theo cách nhìn trên đây là được sinh ra trong một
bối cảnh thuận lợi giúp mình tu tập bởi vì sự tu tập tự nó và chính nó đã là sự
tự do. Tóm lại sự tự do ấy tùy thuộc vào chính mình, nghiệp của mình. Không
sinh ra trong tám hoàn cảnh bất thuận lợi thì đấy là kết quả mang lại từ các
nghiệp lành của mình trong quá khứ. Khi nhìn vào những người chung quanh chúng
ta thấy họ giàu sang, quyền thế, xinh đẹp, khỏe mạnh, hạnh phúc hay nghèo đói,
hung dữ, tật nguyền, tù tội, điên loạn, ngu đần... thì sẽ cảm nhận được sự tự
do của chính mình. Sự tự do đó nói lên sự may mắn biết được Đạo Pháp, biết kiểm
soát tư duy, tác ý, ngôn từ và hành động của mình. Tóm lại sự tự do đó là một
sự ý thức, một sự cảm nhận phát sinh từ tâm thức mình, do mình chủ động và tạo
ra cho mình.
Khả năng mang lại sự tự do ấy chỉ có con người mới hội đủ mà thôi. Dù mình đang
ở trong hoàn cảnh nào trong sáu cõi luân hồi thì phải luôn ý thức là mình được
may mắn làm người. Không nên phí phạm sự may mắn đó mà phải lợi dụng nó để mang
lại sự tự do cho mình.
11 12
H.11: Lama Zopa Rinpoché (sinh năm 1945 tại
Nepal)
H.12: Nhà sư Lama Zopa tựa vào vai Đức Đạt-lai
Lạt-ma (hình chụp tháng 9 năm 2011)
Sự quý giá được làm
người
Địa cầu được hình thành cách nay năm tỉ năm, trên hành tinh đó sự sống thô sơ
nhất dưới các dạng đơn bào phát sinh cách nay hai tỉ năm. Các sinh vật đơn bào
này tách ra làm hai giới: thực vật và động vật, hai giới tiến hóa theo hai
đường hướng khác nhau. Thủy tổ của giống người (primat/hominid/linh trường)
xuất hiện trên dòng tiến hóa của giới động vật cách nay 7 triệu năm, con người
như chúng ta ngày nay hiện diện trên địa cầu cách nay 200 000 năm, như đã nói
đến trên đây... Vậy những gì xảy ra trong cuộc sống của họ trong khoảng thời
gian 200 000 năm đó, một khoảng thời gian tương đối rất ngắn so với lịch sử của
địa cầu, nhưng lại rất dài so với một kiếp nhân sinh.
Trong suốt gần 200 000 năm người tiền sử sống gần như hoàn toàn dưới sự chi phối
của bản năng: sinh tồn, truyền gìống và sợ chết. Đó là "gia tài" mà
con người cũng như tất cả các sinh vật khác đều thừa hưởng từ sự sống, và cũng
chính gia tài đó đã giúp cho sự sống trường tồn. Sống hoàn toàn dưới sự chi
phối của bản năng, con người gần như không cần suy nghĩ gì cả, và đấy chính là
tình trạng xảy ra trong khoảng thời gian đầu tiên và cũng thật dài trong suốt
gần 200 000 năm hiện hữu. Thế rồi bối cảnh bên ngoài, trong cuộc sống chung
đụng, sự tò mò và quan sát, cũng như các cảm nhận hiện ra trong tâm thức dần
dần tạo ra cho con người khả năng suy nghĩ, tưởng tượng, đưa đến các xúc cảm
ngày càng phức tạp hơn. Các khả năng tâm thần phát triển đó là nguyên nhân trực
tiếp đưa đến sự hình thành của các nền văn minh cổ đại mà chúng ta đã vừa tìm
hiểu sơ lược trên đây. Đối với Phật giáo thì những sự tiến bộ về tinh thần đó
đã giữ một vai trò như thế nào?
Hành động dưới sự chi phối của bản năng là những phản ứng "máy móc"
gần như là vô thức, do đó không tạo nghiệp hoặc chỉ là những nghiệp mang lại
các tác động thứ yếu, không quan trọng, do đó suốt trong thời gian dài mà con
người sống dưới sự chi phối của bản năng, cuộc sống của họ thật "phẳng
lặng" có nghĩa là với những gì xảy ra chung quanh họ và họ thì không có
một ý nghĩ gì về việc biến cải hoàn cảnh của họ, vơ vét nhiều hơn nhu cầu của
họ. Sau khi biết suy nghĩ, quan sát, tưởng tượng tạo ra mọi thứ xúc cảm thì các
tác ý (volition) cũng theo đó mà phát sinh. Tác ý đưa đến hành động và đó là
nguyên nhân đưa đến sự tranh dành, xung đột, tích trữ thực phẩm, kết đoàn,
thành lập làng mạc... và xây dựng các nền văn minh cổ đại. Dưới góc nhìn của
Phật giáo thì tác ý và hành động chính là nghiệp, tác ý và hành động càng phức
tạp thì nghiệp cũng sẽ càng phức tạp, tạo ra một xã hội ngày ngày càng đa dạng
và rắc rối, nhìn dưới một khía cạnh khác thì đấy là sự tiến bộ và văn minh.
Trong xã hội hay thế giới văn minh đó, bản năng sinh tồn đưa đến sự tham lam,
tiền bạc của cải, cướp giật, lừa đảo; bản năng truyền giống làm phát sinh ra sự
tham dục, tình yêu, say đắm, thất tình, quần áo, phấn son kể cả các hình thức
sinh hoạt nghệ thuật; bản năng sợ chết làm phát sinh ra tôn giáo đủ loại. Đến
một lúc nào đó con người cảm thấy không có tự do bèn kêu gọi và hô hào sự tự
do.
Nếu nhìn vào thế giới này qua các khía cạnh trên đây thì sẽ thấy rằng nó vô
cùng phức tạp, thế nhưng nguyên nhân thật đơn giản: chỉ là những sự thúc đẩy
của bản năng. Nói cách khác là con người tự tạo ra thế giới này để tự trói buộc
mình trong đó, không có ai nhúng tay vào đấy cả. Tự tạo ra thế giới đầy vướng
mắc này cũng là một cách mà con người tự tước đoạt sự tự do của mình thế thôi.
Một khi đã hiểu rằng thế giới này là do tâm thức con người tự tạo ra cho con
người thì nếu muốn thoát ra khỏi nó thì chính con người cũng phải tự tìm cho
mình một lối thoát từ bên trong tâm thức mình. Không có một Đấng Thiêng Liêng
nào, một sức mạnh nào bên ngoài có thể làm được việc đó. Bằng chứng là các
phương tiện luật pháp, súng đạn, tòa án, nhà giam, các thể chế chính trị, các
bản tuyên ngôn nhân quyền, các chủ nghĩa chính trị... chỉ khiến cho tình trạng
xã hội trở nên nặng nề và bế tắc thêm mà thôi.
Sự tự do và gánh nặng
của nghiệp
Nếu nhìn vào tám điều kiện cần thiết mang lại sự tự do mà nhà sư Lama Zopa đã
nêu lên trên đây, thì theo Phật giáo đấy là kết quả do "nghiệp" mang
lại. Nghiệp (karma) là một khái niệm thật căn bản trong giáo lý
Phật giáo. Vậy nghiệp là gì?
Nghiệp thường bị hiểu sai - kể cả đối với những người Phật giáo - như là một
định mệnh, không sao tránh thoát được. Mỗi khi có một sự kiện phũ phàng xảy đến
thì người ta thường xem đấy là hậu quả do nghiệp của chính mình mang lại cho
mình, đấy cũng chỉ là một cách tự an ủi. Thế nhưng phải hiểu rằng nghiệp nguyên
nghĩa của nó là một "hành động" và "hành động" thì không
mang tính cách thụ động mà tích cực. Cũng xin nhắc thêm ở đây là "hành
động" theo Phật giáo gồm có tư duy, xúc cảm, tác ý trong tâm thức, ngôn từ
và động tác trên thân xác. Do đó nghiệp lúc nào cũng là một hành động, một hành
động xảy ra trước đó đưa đến một hành động xảy ra sau nó, đó chính là tính cách
liên tục của nghiệp thúc đẩy nhau, phản ảnh sự vận hành liên tục của tri thức
mình, có nghĩa là nó không sao ngưng nghỉ được. Tu tập là chủ động hành động để
khiến nó không làm phát sinh ra hành động. Sự ngưng nghỉ đó sẽ khiến mình cảm
thấy khỏe hơn, được nghỉ ngơi một chút. Tu tập đến chỗ tối thượng là cắt đứt
luôn sự thúc đẩy của hành động này đưa đến hành động kia, sự cắt đứt đó gọi là nirodha sự
đình chỉ hay giải thoát, phía sau sự đình chỉ đó là sự tự do đích thật đang chờ
đợi mình. Trên đây là một hình ảnh đơn giản hóa giúp chúng ta có một ý niệm nào
đó về sự vận hành của nghiệp. Dưới đây là mô hình chi tiết hơn về sự vận hành
này.
Trên phương diện triết học "định mệnh" (fatality) là một thứ gì đó đã
được định sẵn từ trước, không sao tránh khỏi được. Trái lại đối với Phật giáo
nghiệp (karma) rất linh động và không ngừng chuyển biến, nó có thể được hóa
giải, "ngủ yên", hoặc cũng có thể bị khích động thêm và trở nên gay
gắt hơn. Một hành động - dưới các hình thức tư duy, tác ý, ngôn từ, động tác -
luôn lưu lại dấu vết của nó trên dòng tri thức của một cá thể. Các dấu vết đó
tương tác với các dấu vết khác đã có từ trước tạo ra bởi các nghiệp quá khứ, và
do đó nó sẽ biến đổi khác đi. Các dấu vết ghi khắc này lại tiếp tục biến đổi
khi các dấu vết mới của các nghiệp mới được ghi khắc thêm trên dòng luân lưu
của tri thức. Sự chuyển biến dây chuyền đó tạo ra sự vận hành hay dòng luân lưu
liên tục của tri thức. Tóm lại sự chuyển động của tri thức mang tính cách thời
gian, nghiệp tác động trong từng khoảnh khắc một trên dòng thời gian đó của tri
thức. Những gì xảy ra trong mỗi khoảnh khắc - có thể hiểu như là mỗi "đơn
vị" cùa tri thức - là kết quả mang lại từ một khoảnh khắc xảy ra trước nó,
và chính nó lại trở thành nguyên nhân đưa đến một khoảnh khắc khác hay một đơn
vị mới xảy đến sau nó. Chuỗi tiếp nối bất tận đó chính là dòng luân lưu của tri
thức một cá thể, nó có thể hiện ra trong một thân xác này hay một thân xác
khác, tùy thuộc vào sự chuyển biến và kết quả mang lại từ các dấu vết của
nghiệp mà nó tiếp nhận được trên dòng luân lưu của chính nó.
Dưới một góc nhìn cụ thể và dễ hiểu hơn thì có thể nói rằng tình trạng mà mình
đang có - từ tâm thức đến thân xác - là kết quả mang lại từ các hành động của
mình trong quá khứ, thế nhưng cũng chính cái tình trạng ấy - dưới hình thức một
tổng thể tư duy, xúc cảm, tác ý, ngôn từ và động tác - mà mình đang có sẽ biến
thành nguyên nhân đưa đến một tình trạng khác. Khía cạnh mở rộng đó chính là sự
"tư do" của nghiệp, giúp mình biến cải tương lai của chính mình. Vậy
nghiệp không phải là một định mệnh, mà là một sự trói buộc nhưng đồng thời cũng
là một phương tiện giúp mình thoát ra khỏi sự trói buộc đó. Tóm lại những gì
xảy đến với mình đều bắt nguồn từ một sự kết hợp và tương tác của nghiệp trong
quá khứ, thế nhưng đồng thời thì mình cũng thừa hưởng được một sự tự do nào đó
giúp mình quyết định tương lai của chính mình bằng các nghiệp mà mình tạo ra
cho mình.
Nếu nhìn vào một tấm gương và sau đó là tâm thức mình thì hình bóng của mình
trong tấm gương và các xúc cảm trong tâm thức mình là kết quả mang lại từ
nghiệp của mình trong quá khứ, và sau đó nếu không nhìn vào tấm gương nữa mà
trực tiếp nhìn vào thân xác mình và những gì đang xảy ra trong tâm thức mình
thì mình cũng sẽ nhận thấy đấy chính là nguyên nhân sẽ đưa đến một hình bóng
khác của mình trong tương lai. Đối với nền tư tưởng và triết học Tây Phương thì
định mệnh và sự tự do là hai thái cực, đối nghịch và tương phản nhau, trái lại
đối với Phật giáo thì đấy chỉ là hai thể dạng chuyển tiếp và kết nối nhau của
tri thức mình mà thôi, tương tự như mặt trái và mặt phải của một đồng tiền.
Tóm lại nghiệp tạo ra sự một sự chuyển động liên tục trong tâm thức. Sự chuyển
động đó không tùy thuộc vào sự chi phối của một sức mạnh nào từ bên ngoài, mà
chỉ là sự vận hành của chính tâm thức mà động cơ kích động và thúc đẩy sự vận
hành đó chính là các nghiệp tiếp nối nhau và thúc đẩy nhau. Nghiệp do đó cũng
có thể xem như là một thành phần hay yếu tố gắn liền với sự vận hành của tri
thức, khiến tâm thức thường xuyên rơi vào một tình trạng biến động không dừng
lại được. Tình trạng biến động đó có thể là một sự sôi sục, một gánh nặng đè
lên dòng tri thức, chẳng hạn như các xúc cảm bấn loại: giận dữ, buồn khổ, bám
víu, ghét bỏ..., thế nhưng cũng có thể êm ả như một dòng sông phẳng lặng. Vậy
nếu muốn cho tri thức trở nên nhẹ nhàng và êm ả thì phải đặt cái gánh nặng
(nghiệp/xúc cảm) ấy xuống, chỉ có thế thôi. Hãy đưa ra một thí dụ, chúng ta cãi
nhau với một người nào đó, hai bên to tiếng, càng lúc càng lớn tiếng. Mỗi lời
nói, mỗi câu nói là một cái nghiệp, tiếp nối nhau, thúc đẩy nhau, đến một lúc
nào đó thì gương mặt mình đỏ gay, tim đập mạnh, xúc cảm, ý đồ dấy lên, đấy là
cái "gánh nặng" của nghiệp đang đè nặng trong tâm thức và trên thân
xác mình. Vậy hãy "dừng lại" và đặt cái gánh nặng ấy xuống. Thế nhưng
phải làm thế nào để đặt nó xuống bởi vì nó là một yếu tố gắn liền và tham gia
trực tiếp vào sự vận hành của tri thức?
Ý nghĩa của sự buông
xả trong Phật giáo Theravada
Thuật ngữ Pa-li Upekkha thường được dịch là Xả trong
các kinh sách Hán ngữ với ý nghĩa là một sự buông xả, và cách dịch
này thường gây ra gây hiểu lầm. Chữ Upekkha không có nghĩa là
một sự "xả bỏ", "tha thứ", "hỷ xả", "ngoảnh
mặt đi", phản ảnh một sự bất lực nào đó của mình trước một cảnh huống, mà
là một phép tu tập vô cùng tích cực nhằm tạo ra một thể dạng thăng bằng, an vui,
thanh thản và tĩnh lặng, một sự mở rộng và tự do bên trong tâm thức
(equanimity). Do đó dù có hiểu chữ upekkha như là một sự buông
bỏ hay buông xả đi nữa thì đấy không phải là một sự buông xả hay buông bỏ những
gì thuộc bên ngoài mà là những gì dấy lên trong tâm thức mình. Khi nào không có
một xúc cảm bấn loạn nào, không một tư duy, tác ý vẫn đục và bám víu nào dấy
lên trong tâm thức thì nó sẽ cảm nhận được thể dạng tinh khiết và phẳng lặng
của nó, tức là sự tự do nguyên sinh của chính nó.
Nếu đang cãi nhau với một người nào đó mà mình dừng lại, thì đấy chỉ là sự dừng
lại của nghiệp phát sinh từ lời nói, nhưng chưa phài là upekkha,
bởi vì xúc cảm, tác ý vẫn tiếp tục dấy lên bên trong tâm thức. Upekkha là
đặt cái gánh nặng bên trong tâm thức ấy xuống. Kinh sách gọi đó là sự đình chỉ
(nirodha). Trong thể dạng đình chỉ đó không còn một sự tạo tác tâm thần
nào hiện lên nữa. Khi nào các khoảnh khắc trên dòng luân lưu của tri thức không
còn bị vấy bẩn bởi nghiệp thì sẽ trở nên hoàn toàn giống nhau. Người tu tập một
khi đã quán thấy được các khoảnh khắc hay các đơn vị tri thức của mình đều
tương tự như nhau, không một chút khác biệt nào giữa chúng, thì cũng sẽ cảm
nhận được sự dừng lại của thời gian. Sự dừng lại của thời gian cũng sẽ kéo theo
nó sự dừng lại của không gian, bởi vì hai yếu tố hay kích thước này của hiện
thực luôn liên kết với nhau. Thế nhưng cũng nên hiểu rằng sự dừng lại đó không
có nghĩa là một sự tê liệt mà là một thể dạng bén nhạy, thanh thản, trong sáng
và tỏa rộng của tâm thức. Phật giáo gọi thể dạng đó là sự giải thoát, đạt được
thể dạng đó có nghĩa là người tu tập đã trút bỏ được cái gánh nặng của nghiệp
để tìm thấy sự Tự Do đích thật cho mình.
Trở lại với trường hợp hoàng tử Siddharta Gautama từ bỏ cuộc sống tiện nghi, xa
lìa vợ con, cắt bỏ những lọn tóc trên đầu, vứt bỏ đôi dép dưới chân, đổi bộ
quần áo tươm tất cuối cùng với một kẻ ăn xin để tự biến mình thành một kẻ ăn
xin, đấy là một cách nói lên một sự dứt bỏ mọi sự bám víu bên trong tâm thức
mình. Sự dứt bỏ hay từ bỏ đó (renunciation) đã mang lại cho Ngài một sự tự do
đúng nghĩa của nó.
Các hành động trên đây cho thấy hoàng tử Siddharta đã là một vị Arhat
(A-la-hán). Ngài đã thực hiện được một sự tự do bên trong tâm thức mình. Sự tự
do đó đã giúp người tu hành khổ hạnh Sidharta nhận thấy các phép tu khắc khổ của
các vị thầy của Ngài là một sự sai lầm, sự đày đọa chính mình chỉ làm cho gánh
nặng của nghiệp nặng thêm mà thôi. Sự tự do và sự quán thấy đó đã giúp người tu
hành Siddharta đạt được Giác Ngộ Tối Thượng và trở thành một Vị Phật Toàn Năng
(Samyaksam-Buddha) sáu năm sau đó, sau khi ngồi xuống dưới một cội cây bồ-đề
trong một đêm trăng sáng. Một vị Phật Toàn Năng là một Vị Phật đạt được sự Giác
Ngộ bằng quyêt tâm và nỗ lực của chính mình không nhờ ai khác, và cũng là một
Vị Phật hội đủ khả năng thuyết giảng cho kẻ khác.
Nếu nhìn trở lại hai tấm hình 11 và 12 trên đây thì chúng ta cũng có thể cảm
nhận được một thể dạng tự do nào đó qua nụ cười thật hạnh phúc và hồn nhiên,
bật lên từ bên trong tâm thức của nhà sư Lama Zopa Rinpoché, cái hạnh phúc đó
dường như cũng rưng rưng chạy quanh khóe mắt khi Ngài tựa vào vai của Đức
Đạt-lai Lạt-ma. Tóm lại sự tự do theo quan điểm Phật giáo trước hết là một thể
dạng cảm nhận bên trong tâm thức. Thể dạng cảm nhận đó là do mỗi cá thể tự thực
hiện cho mình bên trong tâm thức mình. Những lời kêu gọi, hô hào, các khẩu
hiệu, các bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, súng đạn, luật pháp, các thể chế chính trị
không mang lại được một sự tự do như thế. Vậy Đức Phật có nói gì đến sự tự do
mang tính cách nội tâm, cá nhân và tự lực đó trong giáo huấn của Ngài hay
không?
Kinh Kalama
Sutta và Kinh Dhammapada
Khi đọc kinh sách thì chúng ta phải luôn ý thức hai điều vô cùng hệ trọng.
Trước hết là Đức Phật không thuyết giảng lý thuyết mà nhất thiết chỉ dạy chúng
ta phải làm thế nào để làm cho khổ đau phải chấm dứt. Ngài khẳng định thật rõ
ràng điều này: "Tương tự như đại dương chỉ có một vị duy nhất là
vị mặn, giáo huấn của ta cũng chỉ có một vị duy nhất là sự giải thoát
(vimutti)". Chữ vimutti trong tiếng Pa-li đồng nghĩa
với chữ mokkha, cả hai đều có nghĩa là giải thoát (delivrance,
freedom, liberation, release), và giải thoát thì cũng có nghĩa là tự do. Giải
thoát ở đây là giải thoát khỏi khổ đau, loại bỏ các xúc cảm bấn loạn gây ra bởi
sự bám víu, tham lam và thèm khát, nói một cách khác là đặt gánh nặng của
nghiệp xuống,
Điều thứ hai cần phải ý thức là Đức Phật thuyết giảng cho những người dân chất
phác sống cách nay 2 500 năm, do đó phải tự đặt mình trong bối cảnh đó để tìm
hiểu những lời giảng của Ngài. Tuy nhiên Đức Phật luôn kính trọng những con
người chung quanh Ngài, tôn trọng sự tự do của họ, khuyến khích sự tự tin và
khả năng xét đoán của họ. Kinh Kalama Sutta (AN 3.65) thuật
lại một hôm Đức Phật và đoàn đệ tử của Ngài đến xứ Kosala và đi ngang thị trấn
Kesaputta. Dân chúng ngụ tại nơi này gọi là dân Kalama, kéo nhau
đến gặp Đức Phật để tỏ bày sự tôn kính của mình và cũng mượn dịp để tham vấn
Ngài. Họ thuật lại rằng có nhiều vị Bà-la-môn và nhiều người tu hành khác từng
đến thị trấn Kesaputta này để thuyết giảng giáo lý của họ. Các vị ấy khen ngợi
giáo lý của mình, thế nhưng người thì giảng như thế này, kẻ thì giảng như thế
kia, chỉ gây ra thêm hoang mang cho họ mà thôi, và họ đã hỏi Đức Phật rằng phải
tin ai bây giờ? Đức Phật giải đáp như sau:
"Này
các người Kalama, tất nhiên là các bạn cảm thấy bối rối và hoang mang, điều đó
thật hết sức tự nhiên. Thế nhưng, này những người Kalama, không nên để mình bị
thu hút bởi các câu chuyện thuật lại, bởi các truyền thuyết, bởi các truyền
thống lâu đời, hoặc bởi uy lực của các bài kinh, cũng không nên để mình bị thu
hút bởi những điều có vẻ hợp lý, hoặc bởi các cách dẫn chứng [như thế này hay
thế nọ], cũng không nên để mình bị thu hút bởi những gì chỉ là bề ngoài, bởi
các cách lý luận, bởi sự tương đồng, bởi những gì rất có thể đúng như thế, kể
cả cách mà mình nghĩ rằng: 'Người tu hành này quả đúng là vị thầy mình'. Thế
nhưng sau khi các bạn đã tự mình nhận định được rằng: 'Có những điều mà họ
thuyết giảng không được đúng lắm, có những điều đáng khiển trách, có những điều
đã từng bị các vị hiền nhân chê trách, và nếu mang những điều ấy ra để thực
hành thì chỉ mang lại những thứ tệ hại và khổ đau, thì các bạn nên gạt bỏ những
thứ ấy đi"
(Dựa theo các bản dịch
của Môhan Wijayaratna, Thanissaro Bhikkhu và Jeanne Schut, để người đọc tự tra
cứu thêm và so sánh giữa các bản dịch khác nhau về bài kinh này nếu cần)
Đấy là sự tự do của Phật giáo. Sau khi giải đáp các thắc mắc của những người
dân Kalama thì Đức Phật tiếp tục chỉ dạy họ cách suy xét để thẩm định những gì
không thiết thực chỉ mang lại khổ đau để tránh. Đức Phật ý thức được con người
luôn ở trong tình trạng khổ đau và vô minh thế nhưng lúc nào Ngài cũng tự tin
nơi khả năng xét đoán của họ, không bắt họ phải tin mình, mà trái lại Ngài luôn
nhắc nhở chúng ta là phải trở về với chính mình. Thật vậy sự tự do là ở bên
trong tâm thức mình. Trước khi nhập diệt, thêm một lần nữa, Đức Phật nhắc lại
điều đó trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài:
"Hãy nương tựa vào chính mình, tự xem mình là ngọn đuốc soi đường cho
mình, là nơi an trú cho mình, mà không cần một nơi an trú nào khác cả".
(Kinh Đại-bát
Niết-bàn tiếng Pa-li/Mahaparinibbana-sutta, theo bản dịch của André
Migot, 1957)
Câu trên đây cho thấy sự tự do không thể tìm thấy ở bên ngoài tâm thức. Sự tự
do bảo đảm bằng luật pháp, súng đạn, cảnh sát hay khóa chặt cửa trước khi đi
ngủ không phải là sự tự do theo cách hiểu của Phật giáo.
Sau đây cũng xin nêu thêm một thí dụ khác về tính cách thiết thực và siêu việt
trong những lời giáo huấn của Đức Phật. Jean-Paul Sartre (1905-1980) một triết
gia cận đại của Pháp có viết một câu như sau: "Sự kiện tưởng tượng
tự cho phép nó tạo ra cho nó một đối tượng: do đó tri thức hoàn tham gia vào
"sự tạo dựng ra thế giới"(L'imaginaire permet de se donner à
soi-même un objet: la conscience est donc totalement impliquée dans la
"constitution du monde) (trích trong phần kết luận của quyển "L'imaginaire",
1940, một tập chuyên luận về Tâm lý học căn cứ theo học thuyết Hiện Tượng
Học/Phenomenology của Edmund Husserl). Thế nhưng nếu nhìn vào kinh sách thì sẽ
thấy rằng Đức Phật đã nói đến điều đó từ 2 500 năm trước:
Tâm thức tạo dựng ra
tất cả mọi cảnh huống
Một người hành động
hay nói lên với một tâm thức không tinh khiết
Khổ đau sẽ đến với
người ấy
Tương tự như chiếc
bánh xe lăn theo vết chân của con bò kéo xe.
Tâm thức tạo dựng ra
tất cả mọi cảnh huống
Một người hành động
hay nói lên với một tâm thức tinh khiết
Hạnh phúc sẽ đến với
người ấy
Tương tự như chiếc
bánh xe lăn theo vết chân của con bò kéo xe.
(thoát dịch hai tiết
đầu tiên trong Kinh Dhammapada, chữ Dhammapada có
nghĩa là "Các vần thơ Đạo Pháp", Hán dịch là Pháp Cú)
Trong mỗi tiết, câu đầu tiên nêu lên là "lý thuyết", thế nhưng các
câu tiếp theo sau mang tính cách ứng dụng và thiết thực, rất tượng hình và dễ
hiểu cho tất cả mọi người dù là ở trình độ nào. Nếu trở lại với các triết gia
ngày nay - nhất là trong thế giới Tây Phương - thì chúng ta sẽ thấy rằng phần
đông bị vướng vào những ngõ ngách của sự biện luận, rơi vào cái bẫy của sự hiểu
biết và tự biện, thường là không mang tính cách thiết thực nào cả, và chúng ta
thỉ cũng chỉ mong rằng tư tưởng của họ không làm phát sinh ra các học thuyết
hay chủ nghĩa tai hại thế thôi.
Những gì nêu lên trên đây cho thấy Đức Phật hết sức thực tế, không chú trọng
đến lý thuyết, thế nhưng bất cứ một phép luyện tập nào cũng cần phải dựa vào
một nguyên tắc rõ rệt, một căn bản lý thuyết nào đó. Nếu Đức Phật vạch ra một
con đường cho chúng ta bước theo thì tất nhiên con đường đó không những được
dựa vào các kinh nghiệm thực tiển chính Ngài đã thực hiện được cho mình mà còn
phải căn cứ vào một sự hiểu biết căn bản và sâu sắc như là một đường hướng chỉ
đạo. Vậy sự hiểu biết ấy là gì?
Tính cách mở rộng
trong Giáo Huấn của Đức Phật
Thật vậy không mấy người trong chúng ta thắc mắc và tìm hiểu xem vị tu hành
Siddharta Gautama sau sáu năm khắc khoải và suy tư đã khám phá ra điều gì trong
đêm giác ngộ để trở thành một Vị Phật, mà chỉ lo tu tập về những gì phù hợp với
những sự bám víu mang tính cách bản năng của mình qua những gì được bày vẽ thêm
chung quanh Giáo Huấn của Đức Phật.
Đức Phật không trực tiếp giải thích về sự Giác Ngộ của mình là gì, nếu có ai
bày tỏ các sự thắc mắc về các hiểu biết lý thuyết thì Ngài chỉ giữ sự yên
lặng, hoặc cho biết là các điều ấy không thiết thực trước sự khổ đau đang bao
trùm và bàng bạc trong thế giới này. Nếu rơi vào lý thuyết thì sẽ khó tránh
khỏi các sự tranh cãi, biện luận triền miên, tạo ra hết thắc mắc này đến thắc
mắc khác, mang lại thêm sự hoang mang và khổ đau mà thôi.
Trong các thời kỳ tiền sử con người giải quyết tranh chấp với nhau bằng gậy
gộc, ngày nay các khám phá khoa khọc giúp con người chế tạo ra thuốc men nhưng
cũng sáng chế ra bom hạt nhân, đóng được tàu thuyền to lớn khám phá ra hình thù
của địa cầu nhưng cũng dùng để để lùa bắt và chuyên chở nô lệ. Con người cổ đại
sáng chế ra vô số thần linh và các tín ngưỡng đủ loại với mục đích tìm cho mình
một lối thoát trước sự sợ hãi và cái chết, thế nhưng dần dần sau đó con người
cảm thấy là mình có quyền "tự do tín ngưỡng", và đấy cũng lại là
nguyên nhân đưa đến những sự bất đồng chính kiến, xung đột và chiến
tranh.
Sự yên lặng của Đức Phật về những gì không thiết thực hay một sự khép kín nào
đó trên phương diện lý thuyết trong Giáo Huấn của Ngài không phải là một sự
giấu giếm hay tránh né mà là một sự mở rộng, một sự tự do thật to lớn mà Đức
Phật dảnh cho mỗi người trong chúng ta tự khám phá ra cho mình. Một khi đã tự
mình khám phá ra thì sẽ không cần đến sự tranh cãi hay biện luận nào cả. Thật
ra sự khám phá ra những gì mà Đức Phật đã quán thấy qua sự Giác Ngộ của Ngài
không phải là dễ, mà cũng chẳng phải là khó, bởi vì Ngài cũng đã hé lộ cho
chúng ta trông thấy, thế nhưng nhất thiết qua những khía cạnh thiết thực mà
thôi.
Cánh cửa khép hờ của lâu đài lý thuyết đó đã được Nagarjuna (Long Thụ), một
trong các vị trụ trì đầu tiên của đại học Nalanda mở rộng thêm vào thế kỷ thứ
II với học thuyết Trung Quán và khái niệm về sự tương liên, tương tác và tương
tạo giữa mọi hiện tượng (Pratityasamutpada/Interdependence) và
khái niệm về Tánh Không (Sunyata/Emptiness), v.v. Hai thế kỷ sau đó Asanga
(Vô Trước) và Vasubandu (Thế Thân) tiếp tục đẩy cánh cửa đó rộng thêm nữa giúp
chúng ta trông thấy các khía cạnh sâu sắc về Tâm lý học trong Giáo Huấn của Đức
Phật qua học thuyết Duy Thức (Cittamatra/Tất Cả chỉ là Tâm Thức, còn được gọi
là Vijnanavada /Giáo lý về Tâm Thức). Ngoài ra cũng có thể nêu lên thêm trường
hợp của Buddhaghosa (Phật Âm, thế kỷ thứ V) khai triển thêm các khía cạnh tâm
lý học trên đây trong Tạng Luận trong Tam tạng Kinh. Kim Cương Thừa và
Thiền Học được hình thành sau đó cũng chỉ liên quan đến lãnh vực thực hành, tức
là các phương pháp tu tập mà thôi. Riêng việc tôn thờ Phật A-di-đà thì có thể
đã xuất hiện vào thế kỷ thứ II trong lãnh thổ của đế quốc Kushan (trải rộng từ
các nước Tadjikistan, Afghanistan, Pakistan ngày nay đến các vùng bắc Ấn), sau
đó được đưa vào Trung Quốc vào hậu bán thế kỷ này và phát triển rất nhanh tại
đây. Việc thờ phụng Phật A-di-đà sau đó đã trở thành một tông phái hẳn hoi gọi
là Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc vào thế kỷ thứ V, và tiếp tục được đưa vào Triều
Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và Tây Tạng, xin lưu ý là đối với Phật giáo Tây Tạng
việc tôn thờ Phật A-di-đà được xem như là một phương tiện "thiện xảo"
không phải là một sự du nhập toàn bộ tông phái. Tịnh Độ Tông chỉ tạo được ảnh
hưởng sâu đậm tại nơi mà tông phái này được hình thành là Trung Quốc và các
nước Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Dầu sao thì tông phái này cũng chỉ liên
quan đến lãnh vực tu tập. Trong Phật giáo cổ xưa của Ấn Độ không hề có tông
phái này.
Trở lại với đêm giác ngộ của Đức Phât thì Ngài đã khám phá ra những gì mà sau
đó Nagarjuna, Asanga và Vasubabdhu đã căn cứ vào đó để xây dựng lâu đài lý
thuyết của Phật giáo ? Theo truyền thống văn hóa Ấn Độ thì một đêm gồm có ba
canh; canh một từ sáu giờ chiều đến 10 giờ tối, canh hai từ 10 giờ tối đến 2
giờ đêm, canh ba từ 2 giờ đêm đến 6 giờ sáng. Đức Phật ngồi thiền trong đêm và
đến canh ba thì Ngài vụt đạt được một sự hiểu biết siêu việt, một sự hiểu biết
bao trùm tất cả các sự hiểu biết.
Imasmin
sati, idam hoti
Câu trên đây là câu đầu tiên trong bốn câu bằng tiếng Pa-li xuất hiện trong
nhiều bản kinh trong Kinh Tạng:
"Imasmim sati,
idam hoti;
imassuppâdâ,
idam uppajjati.
Imasmim
asati, idam na hoti;
Imassâ
nirodha, idam nirujjhati."
Bốn câu này thường được dịch như sau:
Cái
này có, cái kia có;
Cái
này sinh ra, cái kia sinh ra
Cái
này không có, cái kia không có;
Cái
này dừng lại, cái kia không sinh ra.
Thế nhưng cũng có thể dịch khúc triết và trung thực hơn như sau:
Cái
này hiện hữu, cái kia hình thành;
Cái
này hình thành, cái kia sinh ra (được tạo tác ra).
Cái
này không hiện hữu, cái kia không hình thành;
Cái
này dừng lại, cái kia chấm dứt (không phát sinh ra).
Dù dịch theo cách nào thì ý nghĩa cũng thật hết sức dễ hiểu, thế nhưng đấy lại
chính là
chiếc chìa khóa của
toàn bộ lý thuyết trong Giáo Huấn của Đức Phật. Thật vậy các câu trên đây tuy
đơn giản dùng để nói lên với những con người chất phác 2 500 năm về trước, thế
nhưng hàm chứa bên trong một sự hiểu biết siêu việt làm kinh ngạc các học giả,
triết gia, khoa học gia... ngày nay, nói chung là các nhà thông thái thuộc mọi
lãnh vực hiểu biết của con người. Sự hiểu biết siêu việt đó kinh sách gọi là Pratityasamutpada(Interdependence/Conditioned
Co-production, Arising Co-production, Hán dịch là Lý Duyên khởi) nói lên một
hiện tượng thật bao quát, có thể hiểu như là một quy luật toàn cầu, chi phối
tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ.
Quy luật đó nêu sự kiện "tương liên, tương tác và tương tạo
giữa tất cả mọi hiện tượng", có nghĩa là bất cứ một hiện tượng nào
trong thế giới và vũ trụ này cũng phải lệ thuộc vào các hiện tượng khác như là
các điều kiện cần thiết để hiện hữu. Tự nó một hiện tượng không thể hiện hữu
một cách độc lập được, không có một ngoại lệ nào cả. Dưới một góc nhìn nào đó
thì có thể nói rằng không có một hiện tượng nào là "tự do" cả. Con
người là một hiện tượng như tất cả các hiện tượng khác do đó từ bản chất con
người không có tự do. Kể cả Thượng Đế hay Vị Sáng Tạo Toàn Năng cũng vậy, qua
góc nhìn của quy luật đó cũng không thể có sự tự do được. Điều này không phải
khó để nhận thấy bởi vì mỗi người trong chúng ta đều có thể tự hỏi như thế này:
"Nếu Thượng Đế sáng tạo ra tôi thì bắt buộc Ngài phải nhờ vào các cơ quan
sinh dục của cha mẹ tôi và cả các xung năng thúc đẩy họ. Nếu Ngài muốn cho tôi
lớn lên hầu có đủ trí thông minh để mà thán phục sức mạnh toàn năng của Ngài
thì Ngài cũng phải nhờ cậy và lệ thuộc vào những người nông dân chất phác tạo
ra hạt gạo, bát cơm nuôi tôi lớn lên". Vậy Thượng Đế cũng phải lệ thuộc
vào các điều kiện khác hơn với chính Ngài, kể cả "sản phẩm" mà mình
sáng tạo ra tức là tôi, nói cách khác là Ngài cũng là một hiện tượng bị chi
phối bởi quy luật tương liên. Sự hiện hữu của Ngài hiện lên trong tâm thức tôi
lệ thuộc vào "đức tin" của tôi, và đức tin đó lại lệ thuộc vào tổng
thể năm thứ cấu hợp tạo ra con người của tôi. Một khi đã bị lệ thuộc - dù là
dưới hình thức nào - thì không thể bảo là có tự do được, và nếu không có tự do
thì khó tránh khỏi khổ đau. Dầu sao thì chính Ngài không tạo ra khổ đau cho con
người, mà chính các xung năng của con người tạo ra Ngài để rồi mang lại khổ đau
cho chính họ.
Trở lại với quy luật tương liên giữa mọi hiện tượng trên đây thì thuật ngữ hiện
tượng (dhamma/dharma/ Hán dịch là pháp)
mang ý nghĩa thật bao quát. Bất cứ gì có thể quan sát, mô tả, tưởng tượng, hình
dung ra được, thuộc bối cảnh bên ngoài hay hiện ra bên trong tâm thức, kể cả
các ảo giác, xúc cảm, các hình ảnh, sự kiện hiện ra trong các giấc mơ khi ngủ
đều là hiện tượng (pháp). Các hiện tượng liên kết với nhau qua một số điều kiện
nào đó và đưa đến sự hình thành của các hiện tượng khác, các hiện tượng khác
lại liên kết với các hiện tượng khác để tạo tác ra các hiện tượng khác nữa. Do
đó người ta gọi thế giới mà chúng ta đang sống trong đó là thế giới
hiện tượng, một thế giới luôn chuyển động, các hiện tượng sinh ra, liên kết
với các hiện tượng khác, tương tác và biến đổi, đưa đến sự hình thành của các
hiện tượng khác, và cứ tiếp tục như thế.
Các đặc tính của một
hiện tượng
Do đó một hiện tượng mang nhiều đặc tính. Đặc tính thứ nhất là tính cách cấu
hợp của nó, có nghĩa là một hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách kết hợp
với các hiện tượng khác. Nếu các điều kiện tạo ra nó không hội đủ thì nó
"không có", thí dụ phải có năm thành phần - đất, nước, lửa, khí,
không gian - để tạo ra một cá thể, nếu thiếu một thành phần thì cá thể ấy
"không có", hoặc một cá thể dưới thể dạng một sự cấu hợp gồm các cơ
quan khác nhau trong thân thể, thế nhưng nếu cơ quan tim ngưng đập không bơm
máu được nữa, thì cấu hợp chung tạo ra cá thể ấy cũng tan rã, kéo theo cả tâm
thức là thành phần cấu hợp phi vật chất của cá thể ấy. Đặc tính thứ hai của
hiện tượng là một thể dạng dưới hình thức "kết quả" mang lại từ sự
kết hợp của nhiều hiện tượng khác làm "nguyên nhân" đưa đến sự hình
thành của nó. Thí dụ một cá thể là kết quả mang lại từ nhiều nguyên nhân tạo ra
bởi sự kết hợp của nhiều hiện tượng xảy ra trước đó. Đặc tính thứ ba của một
hiện tượng là sau khi đã trở thành "kết quả" tạo ra bởi các nguyên
nhân từ trước, thì tức khắc nó lại kết hợp với các hiện tượng khác để trở thành
"nguyên nhân" đưa đến sự hình thành của các hiện tượng khác
nữa.
Ba đặc tính trên đây nói lên bản chất vô thường của mọi hiện tượng, có nghĩa là
các hiện tượng không bao giờ đứng yên mà luôn luôn chuyển động và đổi thay. Thí
dụ một cá thể là một sự cấu hợp gồm tâm thức (tư duy, xúc cảm, tác ý...) và một
thân xác (đầu, thân người, thịt da, máu mủ, óc, xương, ruột, v.v.). Cấu hợp đó
luôn ở trong tình trạng biến đổi, tức là vô thường. Các đặc tính đó của các
hiện tượng cho thấy là một hiện tượng vừa hiện ra như một kết quả thì cũng tức
khắc biến thành một nguyên nhân sau đó. Cá thể con người là một kết quả nhưng
cũng đang là nguyên nhân để tạo ra các hiện tượng khác, chẳng hạn như cái chết
của một cá thể sẽ làm nguyên nhân đưa đến sự hình thành của một cá thể khác
liên hệ với cá thể ấy với một mức độ nào đó.
Có rất nhiều hiện tượng vượt xa hơn khuôn khổ hiểu biết của khoa học, thí dụ
nhờ vào máy móc đo đạt khoa học có thể "ghi nhận" được các phản ứng
sinh học phát sinh từ các xúc cảm, kể cả các xúc cảm hiện ra trong các giấc mơ,
nhưng nội dung của các xúc cảm ấy cũng như các hình ảnh, sự kiện hiện hay các
câu chuyện xảy ra trong tâm thức khi đang ngủ và cả các nguyên nhân làm phát
sinh ra các thứ ấy, thì khoa học không hoặc ít ra thì chưa biết được. Nói chung
là có trùng trùng điệp điệp hiện tượng hiện ra và biến mất, thế nhưng chúng ta
không sao nhận biết hết được, nhất là nhận biết một cách minh bạch, mạch lạc và
hợp lý.
Tính cách hạn hẹp
trong sự quán thấy
Upasika Kee Nanayon một nữ cư sĩ người Thái và cũng là một trong các thiền sư
lỗi lạc nhất của nước này trong thế kỷ XX, trong quyển "Hãy đọc
các dòng chữ trong tâm thức mình" ("Reading the
Mind". Độc giả có thể đọc bản Việt dịch trên trang mạng Thư Viện Hoa
Sen: http://thuvienhoasen.org/a24918/hay-doc-cac-dong-chu-trong-tam-thuc-minh)
có nêu lên một câu như sau: "Phàm đọc một câu, nghe một lời nói,
nhìn thấy một sự kiện, một hiện tượng hay một biến cố xảy ra, thì đấy cũng chỉ
là một mảnh vụn củạ sự hiểu biết". Một câu phát biểu
thật hết sức sâu sắc, cho thấy những sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ là
những mẩu hiểu biết bé xíu và vụn vặt của hiện thực. Sự hiểu biết vỡ ra từng
mảnh đó không thể giúp chúng ta nhìn thấy được hiện thực.
Sự quán thấy cũng tương tự như trò chơi ghép hình (puzzle), các mảnh hình rời
rạc và hỗn độn, xếp không ăn khớp với nhau sẽ không tạo được một hình ảnh mạch
lạc nào cả. Nếu có càng nhiều mảnh và mỗi mảnh càng nhỏ thì càng khó ráp. Đối
với sự hiểu biết về hiện thực cũng thế, các hiện tượng càng nhiều, càng vụn vặt
thì sẽ càng khó cho chúng ta dựa vào đó để hình dung ra hiện thực một cách mạch
lạc và trung thực. Nối ráp các mảnh vụn hiểu biết xuyên qua không gian và thời
gian lại còn đòi hỏi một sự nhận thức sắc bén và sâu sắc hơn nhiều.
Đức Phật với một khả năng quán thấy siêu việt bùng lên trong một đêm giác ngộ
không những giúp Ngài vượt lên trên tất cả các khó khăn trên đây để quán thấy
bản chất tương liên (Pratityasamutpada/Interdependence) của thế giới
hiện tượng mà còn quán thấy được cả trùng trùng điệp điệp các sự tương tác và
tương tạo đang xảy ra trong thế giới ấy. Vậy từ sự quán thấy đó Ngài đã rút tỉa
được những gì hầu mang lại cho chúng ta những hiểu biết thiết thực giúp chúng
ta vượt thoát ra khỏi thế giới này?
Khái niệm về mười hai
mối dây tương liên
Trong thế giới với trùng trùng điệp điệp hiện tượng tương kết với nhau và cùng
nhau vận hành xuyên qua không gian và thời gian, thay nhau hiện ra và biến mất,
Đức Phật đã chọn ra được 12 sự tương kết, sắp xếp chúng thành một vòng tròn và
gọi là "Mười hai mối dây của sự tạo tác trói buộc",
tiếng Phạn là Dvadasanga pratityasamutpda hoặc còn gọi là Dvada
nidasa, kinh sách Tây Phương gọi là Twelve links in the chain of
existence/Douze liens de la co-production conditionnée v.v., kinh sách Hán ngữ
gọi là "Thập Nhị Nhân Duyên". Sở dĩ dài dòng vì đây là
một trong các ứng dụng quan trọng nhất mà Đức Phật đã rút tỉa được từ sự khám
phá của Ngài vể quy luật "tương liên, tương tác và tương tạo" của mọi
hiện tượng (Pratityasamutpada/Interdependence).
Mười hai mối dây liên kết và trói buộc đó cho thấy sự hiện hữu của vô minh -
tức là sự hiểu biết sai lầm của mình - sẽ đưa đến sự tạo nghiệp, sự tạo nghiệp
sẽ đưa đến sự hình thành, v.v. và sự hình thành sẽ đưa đên sự sinh, già nua và
cái chết. Sau đây là 12 mối dây trói buộc do Đức Đạt-lai Lạt-ma nêu lên trong
quyển "Ý Nghĩa Sự Sống" (The Meaning of
Life, Wisdom Publications, 1992. Độc giả có thể xem bản Việt dịch trên Thư
Viện Hoa Sen: http://thuvienhoasen.org/a19420/the-gioi-theo-quan-diem-phat-giao
):
- vì nguyên nhân vô
minh tiên khởi, sự tạo nghiệp phát sinh,
- vì nguyên nhân tạo
nghiệp, tri thức phát sinh,
- vì nguyên nhân tri
thức, "danh xưng" và "hình tướng" phát sinh,
- vì nguyên nhân
"danh xưng" và "hình tướng", các cơ sở của sự hiểu biết
phát sinh,
- vì nguyên nhân các
cơ sở của sự hiểu biết, sự tiếp xúc phát sinh,
- vì nguyên nhân tiếp
xúc, giác cảm phát sinh,
- vì nguyên nhân giác
cảm, sự thèm khát phát sinh,
- vì nguyên nhân thèm
khát, sự nắm bắt (bám víu) phát sinh,
- vì nguyên nhân nắm
bắt, sự hình thành (sinh khởi) phát sinh (nghiệp đã chín),
- vì nguyên nhân hình
thành, sự sinh phát sinh,
- vì nguyên nhân sự
sinh, "già nua" và "cái chết" phát sinh.
Chuỗi níu kéo và trói buộc đó cho thấy thật rõ ràng là con người không có tự
do, không sao thoát khỏi được sự già nua, bệnh tật và cái chết. Thế nhưng Đức
Phật cũng cho thấy rằng nếu vô minh không có thì sự hình thành, sự sinh, sự già
nua và cái chết cũng sẽ không có ("Cái này dừng lại, cái kia chấm
dứt": quy luật tương liên). Khi vô minh bị xóa bỏ thì sự sinh, già
nua và cái chết cũng sẽ "đình chỉ". Sự đình chỉ đó sẽ diễn tiến theo
một quá trình đảo ngược của 12 mối dây trên đây. Thay vì trói buộc và xoay tròn
thì quá trình này sẽ tháo gỡ và cắt đứt những sự lôi kéo của 12 mối dây trên
đây:
- khi vô minh tiên
khởi chấm dứt, sự tạo nghiệp chấm dứt,
- khi sự tạo nghiệp
chấm dứt, tri thức chấm dứt,
- khi tri thức chấm
dứt, "danh xưng" và "hình tướng" chấm dứt,
- khi "danh
xưng" và "hình tướng" chấm dứt, các cơ sở của sự hiểu biết chấm
dứt,
- khi các cơ sở của sự
hiểu biết chấm dứt, sự tiếp xúc chấm dứt,
- khi sự tiếp xúc chấm
dứt, giác cảm chấm dứt,
- khi giác cảm chấm
dứt, sự thèm khát chấm dứt,
- khi sự thèm khát
chấm dứt, sự nắm bắt (bám víu) chấm dứt,
- khi sự nắm bắt chấm
dứt, "sự hiện hữu" hay là sự hình thành (nghiệp chín muồi) chấm dứt,
- khi sự hình thành
chấm dứt, sự sinh chấm dứt,
- khi sự sinh chấm
dứt, sự "già nua" và "cái chết" chấm dứt.
Thật hết sức rõ ràng quy luật về "sự tương liên, tương tác và tương tạo
giữa mọi hiện tượng" (Pratityasamutpada) đưa đến khái niệm về
"12 mối dây của sự tạo tác trói buộc" (Dvadasanga pratityasamutpada)
chi phối con người trong thế giới hiện tượng, chính là chiếc chìa khóa mở ra
lâu đài lý thuyết trong Giáo Huấn của Đức Phật. Thế nhưng Ngài gần như không sử
dụng đến chiếc chìa khóa ấy. Chung quanh Ngài chỉ là những con người chất phác
của 2 500 năm về trước, đem lý thuyết để giảng cho họ thì quả thật không ích
lợi gì, trong khi đó thì những gì cấp bách hơn đối với họ là những khổ đau mà
họ đang phải gánh chịu. Những khổ đau đó nói lên sự mất tự do của họ gây ra bởi
sự vận hành của quy luật tương liên trói buộc họ trong thế giới hiện tượng. Đối
với tình trạng mất tự do đó thì không thể bồng bế nhau chạy mà thoát được, dù
chạy phương nào trong thế giới này cũng vậy, bởi vì mình cỏng nó mà chạy, nó
gắn liền với thân xác và tâm thức mình.
Chính vì sự khổ đau mang tính cách hiện sinh và nội tại đó của con người mà Đức
Phật sau khi đạt được Giác Ngộ đã dành trọn khoảng thời gian còn lại trong
trong kiếp nhân sinh cuối cùng của Ngài để thuyết giảng những điều vô cùng
thiết thực giúp chúng ta loại trừ khổ đau và cả nguyên nhân của khổ đau đang
bao trùm và đày đọa chúng ta. Vậy những điều ấy là gì?
Bốn Sự Thật Cao Quý
Thế giới hiện tượng luôn trong thể dạng chuyển động, các hiện tượng được hình
thành và biến mất liên tục, tương tự như ảo ảnh, do đó người ta thường bảo rằng
bản chất của các hiện tượng trong thế giới đó là Tánh Không, tức là trống không
về một sự hiện hữu độc lập, trường tồn và nội tại. Bản chất đó khiến cho chúng
ta thường hiểu sai về tính cách không thật của thế giới hiện
tượng. Thế nhưng dù là vô thường nhưng thế giới đó và các hiện tượng của nó rất
thật. Đức Đạt-lai Lạt-ma thường nêu lên phương pháp sau đây giúp chúng ta
xác nhận tính cách rất thật của mọi hiện tượng: nếu muốn biết là mình có thật
hay không thì cứ lấy tay véo thật mạnh vào người mình xem có đau hay không? Sau
khi quán thấy được bản chất của thế giới hiện tượng và quy luật tương liên của
nó thì Đức Phật cũng khám phá ra được vô số sự thật trong thế giới đó, trong số
này có một sự thật đã khiến Ngài cảm thấy thương xót chúng sinh vô ngần, không
sao cầm lòng được: đó là sự thật về những khổ đau của
họ.
Đức Phật tiếp tục thiền định sau đêm giác ngộ và khám phá ra thêm ba sự thật
nữa đó là: sự thật về nguồn gốc của khổ đau, sự thật về sự
chấm dứt của khổ đau và sự thật về con đường [mang
lại sự chấm dứt của khổ đau]. Ngài quyết định dành tất cả hơi sức còn lại trong
kiếp nhân sinh của Ngài để nói lên với chúng ta về những sự thật đó. Trước hết
Ngài tìm năm người đồng tu khổ hạnh với mình trước kia để giảng cho họ nghe về
những sự khám phá đó. Sau khi nghe xong thì họ xin được trở thành đệ tử của
Ngài.
Bài giảng đầu tiên ấy gọi là Dhammacakkhapavattana-sutta có
nghĩa là "Bài kinh Khởi động Bánh xe Đạo Pháp"(Hán dịch
là "Kinh Chuyển Pháp Luân") và Bốn Sự Thật Cao Quý nêu
lên trong bài kinh này thì gọi là Catvary-aryasatyani (Hán Dịch
là Tứ Diệu Đế). Bốn sự thật này sở dĩ được gọi là Cao Quý bởi vì đấy là những
sự thật thiết thực và ích lợi, chẳng qua vì trong thế giới này có rất nhiều
những sự thật khác, thế nhưng các sự thật ấy nếu không mang lại đau buồn và đổ
vỡ thì cũng chẳng lợi ích gì dù có hiểu được hay đạt được chúng.
Sau đây là Bôn Sự Thật Cao Quý:
- Sự Thật Thứ Nhất (Dukkhasatya) là sự thật của khổ
đau:
"Này các tỳ kheo, đây là sự thật cao quý
về sự khổ đau: sinh là khổ đau, già nua là khổ đau, bệnh tật là khổ đau, chết
là khổ đau, xa lìa những gì mà mình yêu thích là khổ đau, bị gắn chặt với những
gì mà mình ghét bỏ là khổ đau, không đạt được những gì mà mình thèm muốn là khổ
đau. Tóm lại là năm thứ cấu hợp của sự bám víu là khổ đau" (Kinh Dhammacakkhapavattana-sutta).
Tóm lại có thể phân loại các thứ khổ đau do Đức Phật nêu lên trong câu kinh
trên đây theo ba thể loại:
a) Khổ đau của khổ đau (Dukkha-dukkha): có nghĩa là chỉ
cần nghĩ đến hay tưởng tượng đến là cũng đủ khiến mình khổ đau, đó là những thứ
khổ đau mang tính cách hiện sinh và nội tại của sự hiện hữu: sự sinh, già nua,
bệnh tật, cái chết, xa lìa những gì mà mình yêu quý, kết hợp với những gì mà mình
không thích, kể cả sự cố gắng loại bỏ những thứ khổ đau ấy.
b) Khổ đau của sự đổi thay (Viparinama dukkha): trong
thế giới hiện tượng tất cả những gì cấu hợp đều chuyển động và đổi thay, bản
chất "vô thường" đó là khổ đau. Người ta cũng có thể ghép thêm vào
thể loại khổ đau này hai thứ khổ đau trong thể loại thứ nhất trên đây: đó là sự
bám víu vào những gì mình yêu quý nhưng không giữ được, và sự ghét bỏ những gì
mà mình phải chịu đựng mà không dứt bỏ được. Nếu thể loại khổ đau thứ nhất là
một thể dạng mất tự do mang tính cách hiện sinh mà mình không làm gì khác hơn
được thì thể loại khổ đau thứ hai là những sự khổ đau mà chính mình tự tạo ra
cho mình.
c) Khổ đau của sự tạo nghiệp (Samskaradukkhata) là một
thứ khổ đau cùng khắp phát sinh từ sự hình thành dưới thể dạng cấu hợp trong
thế giới hiện tượng. Đó là thứ khổ đau mang lại từ năm thứ cấu hợp (còn gọi là
ngũ uẩn) tạo ra một cá thể. Những sự khổ đau này rất sâu kín, đó là một sự khổ
đau bàng bạc của sự hiện hữu. Nếu chăm chú nhìn vào một tấm gương và nội tâm
mình một lúc lâu thì có thể mình sẽ nhận ra được những khổ đau sâu kín đó. Thế
nhưng nếu nhìn vào tấm gương để tô điểm hay ngắm nghía quần áo mà mình đang mặc
chẳng hạn thì sự chiêm ngưỡng ấy là một hình thức vô minh che khuất những sự
khổ đau kín đáo của bản chất cấu hợp của thân xác và tâm thức mình.
Dầu sao cũng phải hiểu rằng Đức Phật nêu lên sự thật về khổ đau không có nghĩa
là Ngài yếm thế hay là để dọa nạt chúng ta, mà là để chúng ta trông thầy sự
thật về tình trạng mất tự do của chính mình, trước khi giải thích từ đâu đã
phát sinh ra tình trạng đó, và ngay sau đó Ngài cũng khẳng định với chúng ta là
tình trạng đó có thể làm cho nó thay đổi được, và sau hết là Ngài đưa ra các
phương pháp giúp chúng ta làm cho nó phải chấm dứt.
-
Sự Thật Thứ Hai (Dukkhasamudayasatya) là sự thật về nguồn gốc
của khổ đau:
"Này các tỳ kheo, đây là sự thật về nguồn gốc của khổ đau. Đó là sự thèm
khát đưa đến sự tái sinh, sự hình thành, gắn liền với sự mong muốn vô độ tìm
thấy những thích thú mới nơi này hay nơi khác, tức là sự thèm khát các thứ
thích thú của giác cảm, những sự thích thú của sự hiện hữu, của sự hình thành
và cả của sự phi-hiện-hữu" (sự giải thoát) (id).
Sự thật này là kết quả mang lại từ một sự chẩn bệnh, nhằm khám phá ra nguyên
nhân gây ra khổ đau: đó là sự thèm khát và bám víu. Sự thèm khát gồm có ba thể
loại: thèm khát những thú vui giác cảm, thèm khát sự hình thành, thèm khát sự
không-hiện-hữu. Các sự thèm khát này là nguyên nhân trực tiếp mang lại mọi thứ
khổ đau, bởi vì thèm khát sẽ làm hiện ra tác ý và đưa đến hành động, và những
thứ này chính là nghiệp (karma).
- Sự Thật Thứ Ba (Nirodhasatya) là sự thật của sự chấm
dứt khổ đau:
"Này
các tỳ kheo, đây là sự chấm dứt của khổ đau. Đó là sự chấm dứt hoàn toàn của sự
thèm khát, buông bỏ sự thèm khát, cắt đứt sự thèm khát, giải thoát mình ra khỏi
sự thèm khát, cởi bỏ sự thèm khát" (id).
Phương thuốc giúp mình hết khổ đau chính là sự chấm dứt (nirodha/đừng
lại, đình chỉ) mọi sự thèm khát, tức là loại bỏ nguyên nhân mang lại khổ đau
cho mình. Xin nhắc lại câu thứ tư trong cách định nghĩa quy luật tương liên:"Cái
này dừng lại, cái kia chấm dứt". Và sự chấm dứt hay đình chỉ đó
chính là Niết-bàn (Nirvana). Sự chấm dứt hay đình chỉ ở đây có nghĩa là làm cho
khổ đau không còn phát sinh ra được nữa.
- Sự Thật Thứ Tư (Margasatya) là sự thật về con đường:
"Này
các tỳ kheo, đây là sự thật cao quý về con đường mang lại sự chấm dứt của khổ
đau. Đó là con đường gồm tám yếu tố là: sự quán thấy đúng đắn, suy nghĩ đúng
đắn, ăn nói đúng đắn, hành động đúng đắn, phương tiện sinh sống đúng đắn, nỗ
lực đúng đắn, chú tâm (tập trung tâm thần) đúng đắn, suy tư (suy nghiệm,
thiền định) đúng đắn" (id).
Tám yếu tố tạo ra con đường là các liều thuốc mang lại sự đình chỉ, hóa giải
mọi sự khổ đau. Vây nếu muốn cho mọi sự khổ đau chấm dứt hầu tìm thấy sự Tự Do
đích thật và dứt khoát cho mình thì phải sử dụng cả tám liều thuốc ấy cùng một
lúc. Các liều thuốc này sẽ tác động đến ba lãnh vực trong cuộc sống của mình
trên con đường:
- Đạo đức: 1) ngôn từ đúng đắn, 2) hành động đúng đắn, 3) phương
tiện sinh sống đúng đắn.
- Suy tư: 1) nỗ lực đúng (quan tâm và ngăn chận các dục vọng, các
xu hướng tâm thần nguy hại và bấn loạn không cho chúng phát sinh, đồng thời
phát huy và duy trì các thể dạng tâm thần tốt và lành mạnh, nói chung là các
phương pháp cải biến tâm thức mình), 2) sự chú tâm đúng (cảnh giác và canh
chừng thân xác, giác cảm, tư duy, ngôn từ, tức là cách chủ động tâm thức mình),
3) sự tập trung đúng (thiền định, chẳng hạn như theo dõi hơi thở hay suy tư về
bản chất của mình và thế giới)
- Sự hiểu biết: tức là trí tuệ (prajna), là một sự hiểu biết
siêu nhiên vượt lên trên những sự hiểu biết vụn vặt và vô bổ: 1) tư duy đúng
(không ích kỷ, mở rộng lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, phi-bao-lực), 2)
sự hiểu biết đúng (thấu triệt bốn sự thật cao quý)
(Phần trình bày trên
đây dựa theo quyển Dictionnaire Encyclopédique du Bouddhisme của
Philippe Cornu, Seuil, 2001, tái bản 2006).
LỜI KẾT
Trong gần 200 000 năm hiện hữu trên hành tinh này, con người sống trong đêm tối
của thời tiền sử dưới sự chi phối và kiềm tỏa của bản năng. Trên dòng tiến hóa,
dần dần trí thông minh phát triển thêm phối hợp với các kinh nghiệm sống đã
giúp con người trở nên lanh lợi và khôn ngoan hơn, mang lại cho họ nhiều tiến
bộ thật ngoạn mục. Nhờ đó con người dần dần suy nghĩ rắc rối và trừu tượng hơn,
biết lý luận và trí tưởng tượng cũng trở nên phong phú hơn. Các tiến bộ đó giúp
con người tạo ra các nền văn minh và một cuộc sống định cư tổ chức chặt chẽ
hơn, làng mạc, đô thị, quốc gia được hình thành. Trong cuộc sống ngày càng tiến
bộ và văn minh đó con người nhờ luật pháp dường như đã kiểm soát và chế ngự
được bản năng. Thế nhưng thật ra thì bản năng vẫn còn nguyên, chỉ thụt lùi ra
phía sau để trở thành hậu cảnh, tiếp tục chi phối sự sinh hoạt của con người
một cách kín đáo hơn nhưng không kém phần gay gắt và nặng nề, khiến con người
không sao đạt được sự tự do đúng nghĩa của nó cả. Dù trong các thời kỳ cận đại
họ đã bắt đầu ý thức được lý tưởng vô cùng cần thiết đó nhưng không sao thực
hiện được, bởi vì trong các tổ chức xã hội mà con người tạo ra cho mình, nếu
may mắn không trở thành một kẻ nô lệ thì cũng phải kêu gào sự tự do, bằng chứng
cụ thể là các bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Tượng Thần Tự Do sừng sững ngoài
khơi thành phố Nữu Ước.
Dưới một góc nhìn khác thì có thể xem các sự chi phối của bản năng thúc đẩy sự
sống của con người tiền sử suốt gần 200 000 năm chính là "vô minh nguyên
thủy" mà Đức Đạt-lai Lạt-ma đã nêu lên trên đây. Cách nay khoảng 7 000
năm, trí thông minh của giống người phát triển rất nhanh mang lại một vài tia
sáng lóe lên bên trong tấm màn vô minh đó tạo ra cho họ những sự nhận thức rắc
rối và phong phú hơn, đưa đến sự hình thành của tri thức cất chứa và chuyển tải
tư duy và tác ý đủ loại, làm nguyên nhân đưa đến sự hình thành của các nền văn
minh ngày càng phức tạp hơn. Trong các nền văn minh đó mà hậu cảnh là sự chi
phối của bản năng - tức vô minh nguyên thủy - tạo ra nghiệp ngày càng nặng nề
hơn, khiến con người chưa bao giờ tìm thấy được sự tự do.
Sự tự do trước hết phải là một cảm tính nhẹ nhõm và an bình, mang lại từ sự kết
nối thân thiện và hài hòa giữa con người với nhau. Sự tự do đó tất nhiên không
thể mang lại bởi sự thúc đẩy của bản năng, và cũng không thể mang lại bằng súng
đạn, luật pháp, tòa án, công an, nhà giam, hoặc một chính sách hay chủ nghĩa
nào cả. Sự tự do đó chỉ có thể bùng lên bên trong tâm thức và con tim của con
người bằng tình thương yêu và lòng tử bi đối với tất cả chúng sinh và từng
thành phần trong gia đình nhân loại. Thiết nghĩ đấy có thể là giải đáp cho thắc
mắc nêu lên trên đây là "phải tìm giải pháp nào giúp con người thoát khỏi
sự sợ hãi, hận thù, chiến tranh, bạo lực, áp bức, lường gạt, hầu mang lại cho
mình một sự tự do đúng nghĩa của nó?".
Cung cách hành xử trên đây - bằng tình thương yêu và lòng từ bi - thì dường như
bất cứ ai cũng có thể thực hiện được, không cần phải là một người Phật giáo.
Thế nhưng dầu sao thì các cảm tính tự do mang lại từ cung cách hành xử trên đây
cũng chỉ có thể mang lại một sự tự do tương đối, khó giữ được sự thăng bằng và
bền vững. Tầm nhìn của Phật giáo về sự tự do hướng vào một cấp bậc cao hơn như
thế rất nhiều khi cho rẳng con người từ bản chất không có sự tự do, bởi vì thân
xác họ bị buộc chặt với sự già nua, bệnh tật và cái chết, tâm thức thì bị bủa
vây bởi các xúc cảm bấn loạn, tạo ra bởi sự thúc đẩy của bản năng. Tình trạng
lệ thuộc và mất tự do đó là kết quả mang lại từ các hành động của mình trong quá
khứ, nói một cách khác thì đấy là cái gánh nặng của nghiệp mà mỗi người phải
vác.
Nếu muốn mang lại sự tự do cho mình thì phải đặt cái gánh nặng ấy xuống. Sự nhẹ
nhõm khi cái gánh nặng ấy không còn đè nặng lên vai mình nữa là sự tự do theo
quan điểm của Phật giáo. Sự tự do đó không dựa vào một cung cách hành xử tương
quan với thế giới bên ngoài mà là một sự luyện tập hướng vào nội tâm của mỗi cá
thể. Sự nhẹ nhõm mang lại từ sự luyện tập đó ở vào một cấp bậc sâu xa và tuyệt
đối hơn nhiều so với sự nhẹ nhõm mang lại từ một cung cách hành xử tương quan
với xã hội. Phật giáo gọi đích danh sự nhẹ nhõm sâu xa đó là sự Giải Thoát
(Vimutti/Mokkha). Sự Giải Thoát đó là sự "dừng lại" hay "đình
chỉ" của khổ đau (Nirodha/Cessation ofDukkha) tức là
đặt cái gánh nặng của nghiệp xuống. Sự dừng lại hay đình chỉ đó cũng được gọi
là sự "buông xả" hay "vượt thoát" (Vimutti/delivrance,
release), có nghĩa là làm cho các chu kỳ tái sinh phải "chấm dứt", là
cách giúp mình "thoát ra khỏi thế giới luân hồi" (Mokkha/liberation
from rebirth or Samsara) và hòa nhập vào Niết-bàn (Nibbana).
Các thuật ngữ trên đây khá quen thuộc và đặc thù trong Phật giáo, vậy có phải
là do Đức Phật đã đặt ra hay không? Hoàn toàn không! Các thuật ngữ này đã có
sẵn trong các đạo Vệ-đà và Bà-la-môn, Đức Phật chỉ mượn lại, nhưng trong Phật
giáo thì mang ý nghĩa khác hơn. Chúng ta đều hiểu rằng ngôn từ chỉ là phương
tiện chuyển tải sự hiểu biết, nhưng không phải là sự hiểu biết. Đức Phật vay
mượn các thuật ngữ trên đây vì tính cách phổ biến của chúng khi mà các đạo
Vệ-Đà và Bà-la-môn đã ăn sâu từ lâu đời vào các xã hội thời bấy giờ, nhưng sau
đó Ngài đã giải thích khác hơn giúp các đệ tử của Ngài hiểu rõ hơn ý nghĩa của
các khái niệm nêu lên từ các thuật ngữ này.
Khi nào đã thấu triệt được thật sâu xa quy luật Pratityasamutpada,
tức "cái này có cái kia sinh ra, cái này dừng lại cái
kia chấm dứt", thì chúng ta cũng sẽ không cần phải tìm hiểu các thuật
ngữ trên đây và các khái niệm mà chúng chuyển tải nữa, mà chỉ cần đơn giản "dừng
lại" để cảm thấy một sự "nhẹ nhõm" thật
sâu xa, mang lại cho mình một sự "tự do đích thật và lâu
bền".
Những gì trình bày trên là một mô hình tổng quát về Giáo Huấn của Đức Phật, đặt
trong bối cảnh không gian và thời gian trên dòng lịch sử tiến hóa của nhân
loại, trước khi Giáo Huấn ấy trở thành một tôn giáo như ngày nay. Mô hình này
hy vọng có thể giúp chúng ta nhận định đúng đắn hơn Giáo Huấn của Đức Phật hầu
bước theo vết chân của Ngài. Dầu sao đối với bất cứ một sự nhận định nào thì
bên trong nó nghiệp vẫn còn tham gia và giữ một vai trò nào đó, vì thế thiết nghĩ
thật hết sức tự nhiên là mỗi người trong chúng ta đều có quyền tự do nhận định
theo quan điểm của mình.
Bures-Sur-Yvette, 09.08.16
Hoang Phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét