LỜI GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MỚI: HẠNH NGUYỆN
Những ngày
cuối năm đọc HẠNH NGUYỆN của nhà
thơ MINH ĐẠO
Sáng
sớm những ngày cuối
năm trời phương Nam se lạnh như tín
hiệu của đất trời báo
hiệu xuân đang đến
thật gần. Buổi sáng
thức dậy trời còn
bãng lãng mù sương khoác thêm chiếc áo
ấm bước ra sân
nghe mùi hoa nguyệt quế thoang thoảng, chao ôi là nhớ quê nhà! Lại một mùa xuân xa xứ và có lẽ sẽ mãi hoài như thế
cho đến lúc từ giả
cõi đời!
Nhận tập thơ Hạnh Nguyện của thầy Minh Đạo tặng cũng khá lâu và đã đọc
đi đọc lại mấy lần rồi, muốn viết đôi
dòng cảm nhận nhưng cứ chần chừ mãi vì e rằng với tài trí hạn hẹp của mình bình luận đâu chẳng thấy mà chỉ thấy bình…loạn! Cho đến
bây giờ những
ngày cuối
năm gác lại
bao nhiêu công việc
thế sự, ngồi tính lại sổ
đời một năm đã qua
chưa làm được gì
thì năm mới đã
cận kề, tuổi đời lại thêm
chồng chất, nói
như cụ Nguyễn Du thì
đường đời đã “tà
tà bóng ngả về tây”
mất rồi!. Thôi
thì để chọn cho mình
một chút an
nhiên, tỉnh lặng trong những giờ khắc cuối năm thì không có gì hơn là cầm tập
thơ Hạnh Nguyện lên
đọc lại và (liều)
viết đôi điều cảm
niệm.
Đây
là một tập thơ Đường đa số được viết theo thể thất ngôn bát cú vốn là sở trường của
thầy MĐ, nội dung cũng đã
được tác giả thể
hiện trong tựa đề và
ngay dòng đầu tiên
của lời ngỏ: “Sống ở đời những người sống có chí hướng thường sống có lý tưởng, có hoài bảo…”. Đối với
thầy MĐ thì lý tưởng
sống, hoài bảo sống
là gì thì gần
150 bài thơ trong
thi tập Hạnh Nguyện đã
được tác giả thể
hiện.
Xuân
thời một thuở chốn mao am
Hạnh nguyện chuyên
tu dạ vốn cần
……………………………………..
Tinh tấn công
phu lòng nguyện gang
Khoan hòa
phổ độ huệ nguyền chăm
(Hạnh nguyện)
Chỉ vài
dòng thôi, rất là
kiệm lời nhưng chúng
ta thấy tác
giả đã mở ra
một tâm phát nguyện rộng
lớn cho chính mình
và cho cả tha nhân.
Chúng
ta vốn theo nghiệp tạo tác
mà trôi lăn, sinh tử trong lục đạo, đến và đi là do nghiệp dẫn dắt vì thế nên muôn kiếp rồi vẫn cứ
mải quẩn quanh…
Dương trần trở lại kiếp nào vơi
Vẫn
biết không đâu chẳng
đặng rời
Nghiệp đã
nhiều thời qua khắp nẻo.
Duyên
còn vạn thưở đến nhiều nơi
(Lối cũ)
Vì mãi trôi lăn trong vòng lục đạo như thế cho nên đường về nguồn cội thì ngày càng xa, nhưng đối với người đã phát hạnh nguyện thì mặc dù xa thì xa nhưng có đi là có tới
Phật pháp
đem đường lắng thiện duyên
Công
phu tinh tấn thoát
ưu phiền
Quần sinh thấm hiểu cần nương giáo
Vạn
loại soi tìm phải rỏ
nguyên.
(Đường
về)
Sống giửa cõi
trần thế nhị nguyên
đối đãi với
biết bao nhiêu là
nhiễu nhương nào
là: được-mất, hơn-thua, yêu-ghét,
bại-thành,
vinh-nhục… nó
làm cho ta cứ xoay vần điên
đảo. Đã thế còn bao nhiêu chuyện
thị phi là thói thường
của trần gian, nó
đem đến cho ta bao nhiêu
là lụy phiền
Chuyện thế xưa nay vẫn luận càn
Từ
nơi phố thị đến buôn
làng
Suy
cùng vạn sự nào
ra lẽ
Biết rỏ nhiều điều chỉ rối can!
(Thế gian)
Tất cả những thứ đó
đã tạo nên
tập khí nhiều đời
nhiều kiếp, thế cho nên
hành trình tìm đường về uyên
nguyên nguồn cội, bản lai diện mục quả là xa diệu vợi. Lại
nữa trong cuộc hành
trình vạn lý
đó ta vác theo hành trang nặng nhọc của nghiệp chiêu cảm cùng
với tâm phàm phu
chứa đầy tham ái
nên đôi lúc thấy đuối sức mà
dặm về chưa thấy đâu.
Thế nên không còn cách
gì hơn là bỏ bớt hành
trang của trần thế đi, đó
là BUÔNG XẢ
Tham ái
càng nhiều chẳng đến đâu
Bình
yên thanh thản sẽ vơi sầu
Hơn thua tính
toán thì đau buộc
Được mất so bì
chỉ khổ câu…
(Buông
xả)
Đã
quyết buông
thì buông hết, mộng cũng buông
mà thực cũng buông!
Nói thực là
tạm gọi thế thôi
chứ cõi trần
gian này chẳng
có gì là thực cả
thế nên mới có câu “Đời là cõi mộng” đó sao!
Xa
rồi mộng ủ thói vờn
hương
Rộn rã
cuồng quay mỏi bước đường
Chẳng buộc sầu thêm
về lối cũ
Đừng ôm
thảm dệt dẫu đêm
trường!
(Xả mộng)
Muốn buông
xả để quay về thì
chỉ còn cách là xa
lìa tham ái và đoạn trừ vô
minh vì ái dục và
vô minh, tham, sân. si là cội nguồn khiến cho ta mãi trầm mình
trong vòng sanh tử luân
hồi
Trút
bỏ vô minh tìm
cõi lặng
Vun bồi trí
tuệ uốn nguồn mơ
Tâm
này đang vướng đâu
là tĩnh
Cảnh ấy
không màng thế rỏ
trơ
(Sự duyên)
Trút
bỏ vô minh để xa
lìa phiền não chuyển hóa tâm, ý xa lìa bể khổ
bờ mê tìm về bến
giác là hạnh
nguyện, còn giải
pháp đoạn
trừ thì phải hạ
thủ công phu hành
trì
Chơn
như ngộ thấu bền tu học
Bát
nhã đèn thiền khổ xóa
tan
(Thế
gian)
Và
đây là phương tiện để cho hành
giả thực hiện hạnh nguyện của mình
trên hành trình tìm về bến giác,
như muốn qua sông
thì phải có
chiếc bè
Xướng
tụng không lơi cầu bản
giác
Tham
thiền mãi
gột thoát niềm
si
Ngày
đêm đạo lý
xuôi vầng tuệ
Tháng
lại tinh thần ánh
nét bi
(Chuyên
tu)
Có
một triết lý sống
rất hay là không có
con đường dẫn hạnh phúc
mà hạnh phúc
chính là con đường. Đúng
vậy phải thấy được sự an lạc, hạnh phúc
ngay chính trên lộ trình
tìm về nẻo đạo chứ không
phải là mục
tiêu thì luôn phía
trước mà
ta vẫn cứ nhọc nhằn sống trong khổ đau trong suốt cuộc hành trình
Chốn đạo
không sân đâu luận
biện
Nẻo tâm
chớ đắm chẳng sinh ghiền
Thong dong thấy đủ người càng tiện
Rộn rã
mong đầy dạ bổng yên…
(Thanh
thản)
Tập thơ còn
nhiều bài
đề cập đến chân
lý của cuộc đời là
khổ và con đường
diệt khổ, theo trình
tự mà Đức
Phật đã chỉ dạy
trong bài pháp đầu
tiên sau khi thành đạo về
tứ đế đó là: KHỔ, TẬP,
DIỆT, ĐẠO cho năm anh em ông
Kiều-trần-như tại vườn Lộc uyển. Nhưng đến đây thì ta đã rỏ hạnh nguyện của tác giả là gì rồi nên không cần bàn tiếp làm gì nữa mà chỉ với bốn câu thơ sau cũng đã diễn tả
hết sự phát tâm của tác giả trong bài Thiền tôn quy ngưỡng là quay về nương tựa
Tam Bảo để tiếp bước trên
lộ trình tìm về nguồn
cội.
Già
lam khai diễn ngời kinh pháp
Tứ chúng chuyên bàn sáng luật
nghi
Lắng nẻo an nhiên
tâm quảng khoát
Trau
nguồn bát
nhã huệ quang huy…
Trong tập Hạnh Nguyện ngoài chủ đề chính
là sự phát
tâm tu tập để thoát
khỏi bờ mê tìm về bến
giác, tác giả còn đề cập tới
nhiều lảnh vực khác
như nói về là
công ơn của mẹ, tình
yêu quê nhà..
Dưỡng
dục sinh thành ai hiểu
thấu
Muôn
trùng cách biệt…nghĩa tình
sâu…
(Nhớ mẹ)
Cảnh cũ vương hoài
nao xứ lạ
Quê
nghèo khắc mãi
tận niềm xa
(Ngày
xanh)
Hoặc là tức cảnh sinh
tình, mượn cảnh
để bày tỏ nỗi
niềm riêng
Võng
khói đìu hiu vờn cảnh lặn
Sương mù
hối hả cuộn hè
qua
Ngay
người góc
hẹn sầu xuân lả,
Dại nẻo vườn yêu
lắng nỗi già..
(Chiều
nghiêng)
Sắp nẽo
thu về đơn phận rỗi
Qua mùa
hạ đến não đời
xiêu
Thế
gian vật vả bày muôn
lối
Ngẩm lại…người, ta chẳng khác nhiều
(Bóng
chiều)
Mặc dầu hiểu được lý
vô thường của vạn pháp
nhưng đôi lúc tác giả cũng vương vấn thương tiếc cho một đời hoa sớm nở chóng tàn, thế mới biết tất
cả mọi thứ đều bị luật vô
thường chi phối không
có gì là vĩnh cửu
Thương tràn
mãi tiếc một đời hoa
Mấy chốc tươi màu
cũng chóng qua
Rộn
buổi xum xoe bên liễu
biếc
Rầy đêm
thấp thỏm dưới trăng ngà
………………………………………
Vẫn
biết theo thời rồi giã
biệt
Sao hoài
cứ lại xốn lòng
ta…
(Đời
hoa)
Hay là
những lúc ngồi để
tâm tỉnh
lặng quay vào bên
trong để phản quan tự kỷ, ngẫm cái sự đời hư ảo để mà
biết vạn pháp do
nhân duyên sanh thì cũng do nhân duyên mà diệt để rồi từ
đó không tham đắm vào đó nữa.
Ngẫm lại ôm
phiền chỉ khổ đau
Thân
người bọt bòng
sẽ về đâu
Vơ
đầy cũng đặng bay sương khói
Nhét
đầy nhưng rồi lộn bể dâu!
(Ngẫm)
Tác
giả còn chạm
tay tới nhiều điều khác
nữa như chuyện tình
cảm, chuyện thế sự, cũng đôi
lúc có những câu
thơ bay bổng hết sức phiêu
bồng, lãng đãng
Đường
xưa rộn rã bên người ấy
Phố cũ mơ màng
cạnh kẻ đây
(Chiều
thu)
Đành
thôi lỗi hẹn mối duyên
nồng
Tận cõi
tình mơ khó kiếm mong
Gởi nỗi em về xuôi
gió lộng
Khai niềm kẻ đến hảm đời cong
(Ngày
ấy)
Nhưng dù
nói về điều gì
đi nữa thì
bàng bạc trong các
ý thơ vẫn mang hơi thở thiền cùng với sự an nhiên,
bình tâm khi đối cảnh như Phật Hoàng-Trần
Nhân Tông đã nói “đối cảnh
vô tâm mạc vấn
thiền!” cho nên
không phải tu để biến mình
thành gổ đá
không tri giác, không cảm xúc
mà con tim vẫn dạt dào
tình thương nhưng “sống là
thương mà lòng chẳng vấn vương” mới là
sống thiền, sống đạo…
Thơ Đường luật với những quy tắc nghiêm nhặt về luật,
niêm, vần đối
và bố cục,
với số chữ quy định không
thêm bớt nên
những nhà làm thơ
Đường đều phải tuân
thủ các quy tắc đó. Những một bài thơ tuy đã đáp ứng
được những quy tắc nhưng đó
không phải là
tất cả để có một bài thơ hay. Muốn tạo
được cảm xúc cho người đọc
thì bài thơ phải
biểu hiện được tính
hàm xúc, ít lời nhiều ý,
phải đạt được “ý tại
ngôn ngoại”,
cấu tứ phải chặt chẻ, sáng
tạo trong ngôn ngữ,
chẳng phải vì gó ép
cho đúng niêm luật mà
dùng chữ một cách
gượng gạo. Ta thấy những bài
thơ trong thi tập Hạnh Nguyện đều chỉn chu về quy tắc nhưng văn phong,
ngôn ngữ vẫn
biểu đạt được ý, tứ,
chủ đề của bài thơ.
Đặc
biệt trong thi tập này
có lẽ tác
giả muốn “thể hiện” kỹ năng sáng
tạo và bút pháp vững
vàng của mình đối với thơ
Đường nên dùng khá
nhiều thể loại đắt địa và rất khó
như “thuận nghịch độc”, “thủ vĩ ngâm”, “bát vĩ đồng âm”, “thập thủ liên hoàn”, xướng họa…Về
điểm này chứng
minh cho sự cao tay của tác
giả trong sáng tác
thơ Đường
Khép
lại tập thơ Hạnh Nguyện trên
tay, trong cái không gian tỉnh lặng, yên
ắng của một buổi chiều cuối năm tôi
như thấy được cái
tâm an nhiên, tỉnh tại của tác
giả khi viết những vần thơ cho thi tập, như trong lời ngỏ tác giả đã viết “… dòng đời mãi trôi, vạn vật biến
chuyển không ngừng
cũng bởi do duyên tạo tác. Cứ giử tùy duyên và tâm luôn bình mà làm
việc, nương theo giáo
pháp, hạnh tu mà
đức Phật đã chỉ dạy.
đó chính là “hạnh
nguyện” vươn tới…”
Với một hạnh nguyện thiết tha như thế tôi chợt thấy phía trước một con
đường đang rộng mở thênh
thang cho hành giả bước vào
mà tiếp tục cuộc hành
trình xa lìa, đoạn trừ những khổ đau, phiền não của kiếp nhân sinh để tìm về bến bờ giải
thoát…
Những
ngày giáp tết Kỷ
Hợi-2019
Tâm
Lễ-Nguyễn Ngọc Luật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét