Bác sĩ Nha khoa PHAN THÀNH HẢI
Ðôi khi chúng ta
tự hỏi: Sự nuôi sống cho cơ thể của chúng ta hoạt động như thế nào? Ngoại trừ
những người học về ngành y, phần đông chúng ta còn mù mờ về vấn đề nầy lắm.
Chắc rằng trên con đường tiến đến giác ngộ giải thoát, chúng ta cũng cần nên
tìm hiểu về cơ thể của chúng ta hoạt động như thế nào. Sau đây chúng ta cùng
nhau khảo sát sơ lược về hoạt động của cơ thể gọi là chu trình biến dưỡng tuần
hoàn:
- Ðầu tiên khi
chúng ta ăn thì cần hàm răng nghiền nát thức ăn, trong nước bọt có tiết ra vài
phân hóa tố để làm cho thức ăn dễ tiêu hóa.
- Sau đó đồ ăn thức
uống được nuốt vào dạ dày. Ở đây dạ dày nhồi bóp cho thức ăn rã ra. Dạ dày và
túi mật lại tiết ra thêm vài phân hóa tố làm cho thức ăn tan ra cuối cùng thành
chất lỏng sền sệt. Kế tiếp chất lỏng đó được đưa xuống ruột non. Ở ruột non có
những nếp gấp và ống nhỏ hút dưỡng chất trong chất lỏng đó vào cơ thể. Còn lại
những chất xơ trong chất lỏng sền sệt đó được đẩy xuống ruột già thành phân
tống ra ngoài theo đường hậu môn.
- Dưỡng chất trong
các ống nhỏ đó được hút tập trung vào Tĩnh Mạch Cửa (Portal Vein) để đưa dưỡng
chất vào trong gan. Gan có nhiệm vụ lọc những chất độc trong dưỡng chất và phân
tích dưỡng chất thành những chất bổ nuôi cơ thể.
- Sau khi đi qua
Gan, những chất bổ đó được đưa ra Tĩnh Mạch Chủ dưới (Inferior Vena Cava) để
đưa lên Tim. Trên đường đi, Tĩnh Mạch chủ dưới đi ngang qua hai Trái Thận. Máu
từ hai Trái Thận được đưa ra theo Tĩnh Mạch Thận phải và Tĩnh Mạch Thận trái
rồi nhập vào Tĩnh Mạch Chủ dưới. Máu nầy đã được Thận lọc rồi nhưng là máu đen
vì hồng cầu có chứa khí Carbonic (CO2). Tất cả những chất bổ dưỡng
và máu đen trong Tĩnh Mạch Chủ dưới được đưa lên Tim vào trong Tâm Nhĩ
phải.
Tim là một khối cơ thịt to gần bằng nắm tay có bốn ngăn. Trong Tim có vách ngăn
lớn ngăn Tim từ trên xuống dưới thành 2 phần phải và trái. Phần bên phải lại có
những Valve Tim chia thành 2 ngăn. Ngăn nhỏ ở trên gọi là Tâm Nhĩ phải; ngăn
lớn ở dưới gọi là Tâm Thất phải.
Phần bên trái của Tim
cũng có những Valve chia thành 2 ngăn gọi là Tâm Nhĩ trái và Tâm Thất trái.
- Khi máu đen và
các chất bổ dưỡng được đưa vào Tâm Nhĩ phải rồi chúng được hút xuống Tâm Thất
phải:Các Valve phân chia Tâm Nhĩ và Tâm Thất được mở ra cho máu chảy từ Tâm Nhĩ
xuống Tâm Thất; đó là thời kỳ Trương Tâm.
Kế đó, là thời kỳ Thu Tâm tức là Tim bóp lại. Các valve phân chia Tâm Nhĩ và
Tâm Thất sẽ đóng kín lại. Hỗn hợp máu đen và các chất bổ dưỡng ở trong Tâm Thất
phải được tống qua Phổi theo ống Phổi (Pulmonary Trunk).
- Trong hai trái
Phổi, máu đen sẽ thành máu đỏ vì hồng cầu nhả khí Carbonic ra theo hơi thở
thoát ra ngoài và hồng cầu kết nạp khí Oxygen (O2) từ không khí hút
vào.
- Sau đó máu đỏ và
các chất bổ dưỡng theo các Tĩnh Mạch Phổi được hút trở lại Tim, rồi chúng được
đầy xuống Tâm Thất trái trong thời kỳ Trương Tâm.
Tới thời kỳ Thu Tâm, các Valve ngăn Tâm Nhĩ và Tâm Thất đóng lại; Tim bóp đẩy
máu đỏ và chất bổ dưỡng ra khỏi Tim bằng đường Ðộng Mạch Chủ (Aorta). Từ Ðộng
Mạch Chủ, máu đỏ và những chất bổ dưỡng được phân tán đi khắp cơ thể để nuôi
những Tế Bào của các bộ phân. Sau khi nuôi các Tế Bào rồi, máu đỏ trở thành máu
đen; chất bổ trở thành chất cặn bã được thu gom theo các đường Tĩnh Mạch chảy
xuống Thận.
Ở Thận, các chất cặn bã
được lọc chảy xuống đựng ở Bàng Quang thành nước tiểu ra ngoài. Máu đen ở
Thận lại chảy vào Tĩnh Mạch Chủ dưới đi tiếp tục chu trình tuần hoàn nuôi
dưỡng cơ thể con người.
Bây giờ chúng ta nhìn xem Tế Bào của các bộ phận hoạt động như thế nào? Ðơn
giản là: Mỗi Tế Bào có màng Tế Bào bao bọc, bên trong Tế Bào có một Nhân, chung
quanh nhân là chất lỏng có những Ty Lạp Thể. Màng tế bào có những lỗ nhỏ để
chất bổ dưỡng gồm 3 thành phần là Chất Ðạm, Chất Ðường và Chất Béo cùng
với Máu gồm có Hồng cầu, Bạch cầu và Tiểu cầu đi ra, vô được.
Khi chất bổ dưỡng đi vào
tế bào thì các chất đạm mới sẽ thay thế các chất đạm cũ đã hư hoại; các
chất đường được Oxy trong hồng cầu đốt tỏa ra nhiệt lượng để hâm
nóng cơ thể và làm cho cơ thể có năng lượng để hoạt động. Nếu hoạt động nhiều
quá thì chất béo bị phân tích thành chất đường để bị đốt cho ra thêm năng
lượng. Nếu hoạt động it thì chất đường dư thừa sẽ đọng lại thành chất béo tạo
nên những mô mỡ.
Khi Oxy đốt cháy chất đường thành than thì nó kết hợp với than đó thành
Carbonic (CO2) bám trở lại hồng cầu ra khỏi màng tế bào. Các chất
cặn bã cũng bị thải ra khỏi tế bào cùng với máu đen theo đường tĩnh mạch
xuống thận để thận lọc.
Ðến đây thì có nhiều
người bất giác bỗng la lên “Chúng ta đang sống!”. Trong niềm phấn kích đó họ
nhìn ra ngoài cữa thấy cây cỏ xanh tươi đang đâm chồi nẫy lộc, bướm bay chim
hót thì lại la lên “Vũ trụ đang sống!”. Thật là hớn hở, hoan lạc!
Bây giờ nếu chúng ta dùng kính hiển vi cực mạnh để xem trong nhân của tế bào
thì ta thấy các vòng xoắn di truyền DNA và RNA. Vòng xoắn nầy kết hợp bởi các
dây của những nguyên tử như Oxygen, Hydrogen, Nitrogen…
Nếu ta có kính hiển vi điện tử nữa thì ta có thể xem được cấu tạo của các hạt
nguyên tử. Thành phần của một nguyên tử gồm có một nhân ở giữa, xoay vòng chung
quanh nhân là những điện tử mang điện tích âm (Electron). Khoảng cách giữa điện
tử với nhân nguyên tử tương đối rất xa. Ðiện tử có khối lượng cực nhỏ; có lẽ
người ta không tìm ra loại nào nhỏ hơn nó nữa!
Trong nhân nguyên tử
thường gồm 2 loại hạt là Dương điện tử (Proton) và Trung hòa tử (Neutron). Hai
loại hạt nầy có khối lượng gần bằng nhau và lớn hơn âm điện tử khoảng chục
nghìn lần.
Trung hòa tử không mang điện; còn Dương điện tử thì mang điện tích dương. Rọi
vào một trung hoà tử hay Dương điện tử thì thấy nó được cấu tạo bằng 3 hạt căn
bản gọi là Quark.
Tuỳ theo loại nguyên tử có nhiều hay it trong Trung hòa tử, Dương điện tử và âm
điện tử mà thành ra các chất khác nhau. Trong thiên nhiên có khoảng hơn 100
chất, nhỏ nhất là chất Hydrogen có khối lượng “1,0079u” (u là đơn vị đo khối
lượng của nguyên tử); vừa vừa thì có Carbon với khối lương 12.011u. Lớn nhiều
thì có chất Uranium khối lượng 238.029u.
Sau nầy người ta tìm ra
thêm những hạt nhỏ như Meson, Muon… cỡ bằng Electron nhưng khoa học ngày nay
không biết thêm những hạt vật chất nào nhỏ hơn được nữa mà người ta nhận thấy
rằng tràn đầy khắp vũ trụ là nguyên tử vật chất và thể loại khác là năng lượng.
Năng lượng thì có nhiệt năng, điện năng, động năng, quang năng, phóng xạ,
nguyên tử… Ngoại trừ quang năng còn các loại khác thì vô hình nhưng chúng thật
có trong vũ trụ.
Liệu có liên hệ nào giữa
vật chất và năng lượng không?
Ðến đây thì ta gặp
được phương trình nổi tiếng của hà bác học Albert Einstein (1879 – 1955) là E =
mc2.
E: Năng lượng, m : khối
lượng của vật chất.
C: Vận tốc của ánh sáng
(300.000Km/giây).
Như vậy theo phương trình nầy thì năng lượng và vật chất có thể hoán chuyển qua
lại lẫn nhau. Nói cách khác năng lượng chính là vật chất hay vật chất chính là
năng lượng. Vật chất chính là năng lượng kết tụ lại; còn khi vật chất rã ra thì
phóng thích năng lượng.
Có gì chứng minh phương trình của Einstein là đúng không?
Trong thiên nhiên ta thấy chất Uranium có khối lượng m =238.029u; sau nhiều năm
phóng thích năng lượng, nó nhỏ đi thành chất Thorium có khối lượng m =
232.032u.
Vì thế người ta dùng
những thanh Uranium để cung cấp năng lượng cho nhà máy điện nguyên tử và chạy
Tàu Ngầm nguyên tử. Ðó là để chất Uranium phóng thích năng lượng tự
nhiên, nếu kích hoạt nó nổ thì một quả bom nguyên tử nhỏ có thể trong giây lát
tàn phá cả một thành phố!
Ðức Phật mô tả vật chất và năng lượng là Sắc và Không. Chữ KHÔNG viết hoa
là chỉ cho năng lượng vì nó không hình dạng nhưng là thực thể tràn đầy trong vũ
trụ. Chữ SẮC để chỉ vật chất có lẽ là từ ngữ đúng hơn vì từ KHÔNG kết tụ lại
thành SẮC mà ta có thể thấy được chứ chẳng phải vật chất gì cả.
“SẮC chẳng khác KHÔNG;
KHÔNG chẳng khác SẮC. SẮC tức là KHÔNG; KHÔNG tức là SẮC. Tướng KHÔNG của mọi
thứ trong vũ trụ không sinh ra, không mất đi, không nhơ không sạch; không tăng
không giảm”…(Ma Ha Bát Nha Ba La Mật Ða Tâm Kinh).
Người ta thường thắc mắc sau khi người ta chết đi liệu có còn gì nữa không hay
Chết là Hết?
Ðến đây thì ta bắt gặp
một phương trình khác của Einstein:
mo: Khối
lượng của vật chất lúc ban đầu đứng yên.
m: Khối lượng của vật
chất sau khi di chuyển.
v: Vận tốc của vật ấy.
c: Vận tốc của ánh
sáng.
Theo phương trình nầy, chúng ta nhận thấy
là một vật khi di chuyển càng nhanh thì khối lượng của nó càng lớn hơn nhưng vận
tốc của nó không thể nào bằng hay quá hơn vận tốc ánh sáng được vì như thế thì
khối lượng của nó trở thành lớn vô cùng tận. Nói tóm lại trong thế giới nầy vận
tốc của một vật không thể nào bằng hay lớn hơn vận tốc của ánh sáng được. Hay
nói một cách khác là trong thế giới nầy vận tốc của ánh sáng là giới hạn không
có vật gì có thể di chuyển nhanh hơn nó được.
Trong thực tế thì người ta cũng chưa tìm ra một vật gì có vận tốc nhanh hơn ánh
sáng cả.
Ðến đây chúng ta có một suy nghĩ: Không gian vô tận, thời gian vô tận mà giới
hạn vận tốc trong thế giới nầy chỉ có 300,000 km/giây đâu có là bao, muốn di
chuyển từ thái dương hệ nầy qua thái dương hệ khác có khi mất cả triệu năm ánh
sáng! Vậy thì ngoài thế giới nầy có phải là có thế giới khác chăng? Chắc
là phải có thế giới khác.
Ðức Phật dạy rằng ngoài thế giới ta ở còn có nhiều thế giới khác gọi chung là
Tam giới (3 cõi): Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. Thế giới của chúng ta
thuộc Dục giới. Các thế giới khác không ở đâu xa mà ở cùng một không gian với
ta thôi nhưng là thế giới siêu hình thuộc dạng năng lượng khác với dạng năng
lượng của thế giới chúng ta; đó là các tầng trời có những dạng năng lượng nhanh
nhạy, vi tế hơn mà chúng ta không thấy được vì chúng thuộc những dạng năng
lượng khác.
Ðến đây chúng ta lại phát hiện ra một chân lý là KHÔNG CÓ HƯ KHÔNG!
Vì tất cả các không gian
tuy rằng mắt chúng ta không thấy gì nhưng đầy năng lượng tràn ngập ở đó thì làm
gì có chỗ nào là hư không?
Kinh Phật nói rằng toàn thể Vũ Trụ chỉ là một Bản Thể Chân Tâm duy nhất vô cùng
tận. Muốn hiểu Bản Thể Chân Tâm ấy như thế nào, trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật
dạy:
“Nếu lấy hình tướng mà thấy ta,
Lấy âm thanh mà cầu ta,
Người ấy đi theo đường
tà.
Không thể nào thấy Như
Lai
(Bản Thể Chân Tâm) được”.
Hán văn:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhân hành tà đạo,
Bất năng kiến Như Lai”.
Trong Kinh Hoa Nghiêm ngài Nhất Thiết Huệ Bồ Tát thừa oai lực của đức Phật quan
sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
“Giả
sử trăm ngàn kiếp
Thường
thấy đức Như Lai
(Đức Phật thị hiện là
người có 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ)
Chẳng y chân thật nghĩa,
Mà quán đấng Cứu Thế.
Người nầy chấp lấy
tướng,
Thêm lớn lưới mê lầm,
Giam trói ngục sinh tử,
Ðui mù chẳng thấy
Phật”.
Vậy thì như thế nào mới là thực tướng của Bản thể Chân Tâm (Như Lai, Ðấng Giác
Ngộ, Phật, Chơn linh, Pháp Thân, Ðức Chí Tôn hay Thượng Ðế… tùy theo từ ngữ của
các tôn giáo mà người ta gọi)?
Kinh Hoa Nghiêm giải là:
“Tánh KHÔNG tức là Phật
Cùng khắp mà bất
động”.
A!!!...Vậy thì Thật tướng của toàn thể vũ trụ là KHÔNG hay là Năng Lượng theo
cách hiểu ngày nay.
Trong Kinh Nhân Vương Bát Nhã chỉ rõ hơn:
“Phật hỏi vua Ba Tư Nặc
lấy tướng gì để quán Như Lai?
Nhà vua đáp: Quán thật
tướng thân, quán Phật cũng như vậy, không có quá khứ, hiện tại, vị lai, không
trụ vào ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) cũng không lìa ba thời, không trụ
vào năm uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) cũng không lìa năm uẩn, không trụ vào
Tứ đại (đất, nước, lửa, gió: hiện tượng của Năng Lượng = KHÔNG) cũng không lìa
Tứ đại, không trụ vào Lục nhập (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) cũng không
lìa lục nhập, không trụ vào Tam giới (cọi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc) cũng không
lìa Tam giới, cho đến không có kiến văn giác tri (thấy, nghe, hiểu, biết), tâm
hành xứ diệt, ngôn ngữ đạo đoạn, đồng với chân tế, ngang với pháp tánh, tôi
dùng tướng ấy mà quán thân Như Lai.
Phật nói: Nên như vậy mà
quán, nếu khác vậy là tà quán”.
Khi chúng ta hiểu sâu về
thực tướng của mọi sự vật trong vũ trụ (thực tướng của vạn pháp) thi sự tranh
cãi từ lâu nay về duy tâm hay duy vật sẽ sáng tỏ hơn, có lẽ không cần tranh cãi
nữa vì suy nghĩ cho kỹ thì tâm và vật cũng đồng một thể tánh.
Theo lý mà nói thì chúng ta luôn luôn ở trong Bản Thể Chân Tâm, nhưng vì mê lầm
ràng buộc nên còn chịu nhiều đau khổ. Người nào giác ngộ được Vô Thượng Chánh
đẳng, Chánh giác thì được tự do, tự tại, Niết Bàn an lạc sống trong Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh.
Thường là thường còn, hằng có không hư hoại. Lạc là luôn luôn an vui. Ngã là
Chân Ngã, Bản Thể Chân Tâm. Tịnh là thanh tịnh.
Muốn được như vậy thì điều cần nhất của người Phật tử là phải “Phát Bồ Ðề Tâm”
tức là lòng mong muốn chứng được Vô thượng chánh đảng chánh giác, giác ngộ rốt
ráo. (Bồ Ðề: Giác Ngộ).
Có người la lên: Thành Phật khó quá, làm sao tôi làm được!
- Chứ chẳng lẻ cứ
phải chịu đau khổ, mê lầm hoài sao? Tuy khó nhưng đi hoài cũng tới. Phải phát
tâm muốn được giác ngộ, giải thoát thì cũng có ngày được thôi. Còn không phát
tâm cầu giác ngộ thì cũng như sống trong đêm dài mãi mãi tăm tối, u mê đau khổ
triền miên, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi, không biết đến ngày nào mới
thấy được ánh sáng an vui vì không biết và muốn thoát ra!
Chúng ta đều biết rằng
người nào đam mê, thích muốn điều gì thì cố công thực hành đeo đuổi mãi cũng có
thể thành được mà. Kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Nhược
nhân dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật.
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo”.
Dịch nghĩa:
“Người
nào muốn hiểu rõ,
Tất cả các vị Phật ở trong ba thời.
(Quá khứ, hiện tại, vị lai)
Thì nên suy tư, quán sát hình tướng,
Tánh chất của thế giới vũ trụ nầy,
Tất cả đều do Tâm của chúng sanh tạo ra”.
Kể cũng lạ là điều an vui sung sướng nhất là Vô thượng chánh đẳng chánh giác có
được đủ thứ như ý thường còn, giải thoát được mọi đau khổ mà không cầu, chỉ tìm
cầu mấy thứ vớ vẩn dục lạc tầm thường mau tàn lụi, ẩn chứa nhiều ác độc, nhơ
bẩn, đau khổ ràng buộc lại cứ mê muội nhắm tới.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật khuyên chúng ta rằng:” Các ngươi không
nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị,
xúc thô hèn, nếu tham mê ắt sanh ái nhiễm thì sẽ bị nó đốt. Các ngươi mau ra
khỏi ba cỏi sẽ được chứng ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, và Phật Thừa.”
Trong kinh Di Giáo, Đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm
động như sau:
“Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi đưa đến cứu cánh rốt
ráo. Các thầy chỉ còn nổ lực mà thực hành…Hãy tự mình cố gắng thường trực, tinh
tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích mà sau này sẽ phải lo
sợ hối hận.”
Tuy vậy, phàm phu chúng ta còn nhiều mê lầm, ái dục nên tự mình tìm giác ngộ
cũng khó nên Đức Phật Thích Ca dạy chúng ta nên niệm hồng danh đức Phật
A-Di-Ðà: “Nam Mô A-Di-Ðà Phật” và phát nguyện cầu vãng sanh Tây Phương Tịnh Ðộ
cùng với phát Bồ Ðề Tâm là con đường giác ngộ giải thoát ngắn nhất.
Còn những ai có nhiều trí huệ thì siêng năng nghiên cứu kinh điển, giới luật,
luận tạng và tìm cầu thiện trí thức, thầy dạy mà học tập và thực hành thêm
thiền định thì càng hay hơn nữa (Thiền tịnh song tu). Biết đâu có ngày nào đó
trong tương lai gần quý vị có được Thiên Nhãn hay Huệ Nhãn có thể thấy được các
cõi khác lại còn có thể đến đi qua lại các cõi ấy một cách tự do tự tại rồi
chứng được Viên Thông và Pháp Thân là đạt đến cứu cánh tuyệt đối, giải thoát
khỏi mọi đau khổ ràng buộc ép ngặt để được sống trong an lạc hoàn toàn.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Đức Phật thọ ký (báo trước) cho tất cả chúng sanh
chúng ta sẽ có ngày thành Phật cả mà:
“Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành.”.
Bác sĩ Nha khoa PHAN THÀNH HẢI.
_________
Tài liệu tham khảo: Các
kinh Phật giáo đã trích dẫn ở trên.
- Luận “Bảo
Vương tam muội Niệm Phật trực chỉ” do Sa môn Diệu Hiệp soạn bằng Hán văn, Minh
Chánh dịch ra Việt ngữ.
- Grant’s
ATLAS of Anatomy, Tác giả J.C. Boileau Grant, Fifth Edition.
- Physics for
Scientists and Engineers; Tác giả Douglas C., Giancoli, Second Edition.
_________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét