Ảnh: Đinh Quang Trung
NSGN - Nhận thức Phật
giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai
đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật. Thực sự, đây là vấn đề bận tâm nhất của
Phật. Trong kinh điển, chúng ta thường thấy xuất hiện nhiều từ ngữ như sacca,
yathābhūtam, bhūtaṃ, tacchaṃ atthasaṃhitaṃ, tatva, tathatā,
dharmatā... là để nói về chân lý, hay sự thật, hay những gì phù hợp với
thực tế.
Ngoài ra, Đức Phật còn cho thấy Ngài đã vận dụng rất nhiều phương cách (phương tiện, cách nói) nhằm diễn đạt chân lý. Ngài từng nói rằng chân lý mà Ngài chứng ngộ là rất vi diệu, cao siêu, tịch tịnh, khó thấy, khó hiểu, chỉ có bậc Thánh mới thấu hiểu.1 Do vậy, Đức Phật từng do dự trong việc thuyết giảng giáo pháp sau khi chứng ngộ và có ý định nhập Niết-bàn vì nhận thấy rằng không có ai đủ khả năng lĩnh hội chân lý đó. Ngài nói rằng những vị đạo sư từng hướng dẫn cho Ngài trước đó có thể lĩnh hội được thì đều đã qua đời.
Tuy nhiên, sau khoảng thời gian do dự, Ngài dùng tuệ nhãn để quan sát và nhận thấy rằng có những chúng sanh có trí tuệ, ít phiền não nghiệp chướng có thể lĩnh hội giáo lý đó, nhưng phải bằng phương tiện khéo léo giảng nói họ mới có thể hiểu được. Liền sau đó Đức Phật đã quyết định giảng dạy chân lý mà Ngài đã chứng ngộ sau nhiều lần thỉnh cầu của Phạm thiên. Sự kiện này được nêu rõ trong nhiều kinh điển từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa.
Ngoài ra, Đức Phật còn cho thấy Ngài đã vận dụng rất nhiều phương cách (phương tiện, cách nói) nhằm diễn đạt chân lý. Ngài từng nói rằng chân lý mà Ngài chứng ngộ là rất vi diệu, cao siêu, tịch tịnh, khó thấy, khó hiểu, chỉ có bậc Thánh mới thấu hiểu.1 Do vậy, Đức Phật từng do dự trong việc thuyết giảng giáo pháp sau khi chứng ngộ và có ý định nhập Niết-bàn vì nhận thấy rằng không có ai đủ khả năng lĩnh hội chân lý đó. Ngài nói rằng những vị đạo sư từng hướng dẫn cho Ngài trước đó có thể lĩnh hội được thì đều đã qua đời.
Tuy nhiên, sau khoảng thời gian do dự, Ngài dùng tuệ nhãn để quan sát và nhận thấy rằng có những chúng sanh có trí tuệ, ít phiền não nghiệp chướng có thể lĩnh hội giáo lý đó, nhưng phải bằng phương tiện khéo léo giảng nói họ mới có thể hiểu được. Liền sau đó Đức Phật đã quyết định giảng dạy chân lý mà Ngài đã chứng ngộ sau nhiều lần thỉnh cầu của Phạm thiên. Sự kiện này được nêu rõ trong nhiều kinh điển từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa.
Theo đó, chân lý mà Đức Phật giảng dạy là như thế nào và liệu
người đời sau có hiểu sai hay giải thích sai lời dạy của Ngài hay không? Đây là
vấn đề đã tạo ra rất nhiều thắc mắc cho người nghiên cứu. Nhiều người khi mới
tìm hiểu đạo Phật đã vội vã cho rằng kinh điển đạo Phật thật là rối rắm, khó
hiểu, nhiều mâu thuẫn, thiếu nhất quán... Bởi lẽ, có khi Đức Phật nói có nhân
có ngã, khi lại nói là vô nhân vô ngã; khi thì nói các pháp hiện hữu, khi lại
dạy là không hiện hữu v.v... Điều đó đã tạo ra rất nhiều nhầm lẫn cho người học
Phật vì họ không hiểu được mục đích sử dụng giáo pháp của Phật. Thật ra, Đức
Phật đã tùy vào khả năng của từng đối tượng nghe pháp để giảng dạy cho phù hợp.
Chính vì lẽ đó mà trong kinh chúng ta thường thấy Đức Phật dùng
nhiều ngôn từ, thí dụ, ẩn dụ, so sánh, đối chiếu, quy nạp, loại suy, hoặc là
các trạng thái tâm giải thoát khác nhau để giải thích về chân lý. Tuy vậy,
chính Đức Phật đã nói trong kinh Tập rằng chân lý chỉ có một và chánh
kiến là phương tiện để nhận biết về chân lý đó. Tuy nhiên, ở nơi khác, ta lại
thấy Ngài nói chân lý có hai (Nhị đế), có bốn (Tứ đế), rồi các trường phái nói
có ba (Duy thức, Trung quán), cho đến nhiều chân lý (như 10 chân lý trong Bồ-tát
địa luận của ngài Vô Trước)2.
Như vậy làm sao để hiểu được chân lý như được giải thích theo
nhiều cách thức như thế? Thực sự, vấn đề nhận thức chân lý trong đạo Phật là
một trong những vấn đề phức tạp nhất, bởi vì giáo lý đạo Phật không phải là nền
tảng giáo điều đóng khung cái nhận thức của chúng ta, cũng không phải là sự
cứng nhắc trong cách lý giải. Bởi lẽ, không có một chân lý cố định nào để giải
thích cho các vấn đề thế gian vốn vô thường, giả tạm, sai biệt và không thật!
Tuy vậy, vẫn có những cơ sở, những tiêu chuẩn để nhận thức của
chúng ta có thể thấu hiểu được mà thực hành tu tập cho phù hợp với những lời
dạy thiết thực của Phật để chứng đạt chân lý giác ngộ. Sau đây là những nhận thức
căn bản cho vấn đề nhận thức chân lý.
Chân lý là sự thật phù hợp với điều kiện thực tế
Đức Phật dạy rằng tri thức đúng đắn về thực tại là chân lý và trí
tuệ là để nhận biết sự vật đúng như thật. Một tuyên bố được cho là thật khi nó
phù hợp với điều kiện thực tế, bởi vì điều kiện thực tế là đối tượng của tri
thức nhận lãnh. Từ ngữ Sanskrit biểu thị cho ý nghĩa đó là yathābhūtam.
Kinh Trường bộ nói rằng, hễ điều gì được cho là yathābhūtam thì
điều đó phải là chân thật và tương ứng với thực tại (bhūta).3
Do đó, tri thức về sự vật hiện tượng đúng như thật bao gồm việc nhận thức rằng,
“Những gì hiện hữu thì cho là hiện hữu và những gì không hiện hữu thì cho là
không hiện hữu”.4 Nhận thức này cũng xuất phát từ kinh Apaṇṇaka:
Khi sự thật là có một thế giới khác, và niềm tin khởi lên trong ta
là không có một thế giới khác, thì đó là một niềm tin sai lạc; khi mà thực tế
có một thế giới khác, và niềm tin khởi lên trong ta là có một thế giới khác,
thì đó là một niềm tin chân thật.5
Kinh Pháp cú cũng nói rằng:
Những gì không thật mà cho là chân thật, những gì chân thật mà cho
là không thật, thì đó là tư duy và hành động sai lầm, và vì vậy mà những người
này không thể đạt đến chân thật.
Những gì chân thật thì cho là chân thật, những gì không thật thì
cho là không thật, thì đó là tư duy và hành động chính xác, và vì vậy mà những
người này có thể đạt đến chân thật.6
Ngoài ra, Đức Phật cũng nói trong kinh Tương ưng bộ rằng:
Này các Tỳ-kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh
luận với Ta. Tại sao vậy? Này các Tỳ-kheo, người nói Pháp không tranh luận bất
cứ với một ai ở đời. Cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “có”, Ta cũng nói
là “có”; cái gì người có trí ở đời chấp nhận là “không”, Ta cũng nói là
“không”. Đó là, người trí ở đời chấp nhận sắc là vô thường, không thường hằng,
không thường trú, chịu sự biến hoại, thời Ta cũng nói là “có”; người có trí ở
đời không chấp nhận sắc là thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến
hoại, thời Ta cũng nói là “không”.7
Đức Phật cho biết rằng việc nhận biết sự vật đúng như thật là sự
nhận biết cao nhất. Tất cả những gì Đức Phật dạy đều là thực tại như thật. Ngài
nói rằng dù Như Lai có thuyết giảng hay không thuyết giảng giáo pháp cho các đệ
tử thì giáo pháp ấy vẫn y như vậy.8 Chẳng hạn như, chân lý ở đời là
sự thật về khổ, và đó là chân lý, bởi vì Đức Phật chỉ muốn nói lên sự thật mà
thôi. Khổ là sự thật rõ ràng và hiển nhiên không chối cãi được; do đó cần phải
nhận thức rõ ràng sự thật đó để có giải pháp đoạn trừ.
Cần hiểu rằng, khổ là sự thật nên mới gọi là chân lý, chứ không
phải khổ là chân lý để cần phải đạt được chân lý đó, và cần phải tu tập và thể
nghiệm nó. Hơn nữa, khi Đức Phật nói sự thật về khổ, Ngài cũng nói sự thật về nguồn
gốc của khổ, sự thật về sự diệt khổ và sự thật về con đường đưa đến sự diệt
khổ, đó chính là Tứ Thánh đế hay còn gọi là Bốn chân lý, Bốn sự thật.
Tuy nhiên, các nhà Phật học không cho rằng Phật giáo Nguyên thủy
chủ trương học thuyết về chân lý chỉ như những gì phù hợp với điều kiện thực tế
(pragmatic theory of truth), vì điều này thực sự không thỏa mãn được các vấn đề
đặt ra về chân lý.
Chân lý là logic và nhất quán
Dĩ nhiên chân lý là phải logic, nhất quán, và không chống trái.
Tuy nhiên, tính chất nhất quán lại chưa đủ để tạo thành chân lý. Đó chỉ là yếu
tố cần cho việc phán đoán một điều gì đó là đúng sự thật nhưng chưa phải là
điều kiện đủ; bởi lẽ, thực tế là có những điều nhất quán, hợp lý nhưng lại
không đúng sự thật (vì tiền đề của nó là sai và không đưa đến mục tiêu thiết
thực lợi ích). Đây là lý do khiến Đức Phật phản bác những lý thuyết chỉ dựa vào
lập luận đơn thuần không thỏa mãn mục đích thực tế. Bởi vì lý luận có thể có
giá trị hay vô giá trị, thậm chí là có giá trị đi nữa như trong ý nghĩa của sự
nhất quán nội tại, thì nó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với thực tế. Đây
cũng là ý nghĩa của bài kinh Sandaka trong Trung bộ kinh, nơi mà Đức
Phật đã bác bỏ các lập luận có vẻ logic của những giáo điều chỉ dựa trên cơ sở
lập luận và tự biện đơn thuần.
Ngoài ra, một yếu tố căn bản khác mà Đức Phật luôn quan tâm đó là
sự nhất quán giữa lời nói và hành động. Ngài chỉ trích những đạo sư, nhà ngoại
đạo, nhà tranh luận nói và làm không hợp nhất, trước sau không giống nhau, ngụy
biện, quanh co với mục đích tự khen mình chê người để thu hút quần chúng.9
Đây cũng chính là lý do tại sao Ngài tuyên bố rằng: “Ta làm những gì Ta giảng
nói và giảng nói những gì Ta làm” (tri hành hợp nhất),10 và Ngài
cũng mong muốn đệ tử của mình hãy thực hành y như Ngài.
Đức Phật đưa ra ví dụ rằng, nếu như Ta thuyết giảng những gì chống
lại điều ác của việc uống rượu mà Ta lại đi uống rượu thì rõ ràng là Ta đã
không chứng minh đầy đủ sự thật về những gì Ta nói. Vì vậy, nếu ai đó khẳng
định một tuyên bố là sự thật nhưng hành động như thể nó là sai hay chỉ đúng một
phần thì hành động đó được xem là mâu thuẫn với tuyên bố đã đặt ra.
Mặc dù tính nhất quán là đặc điểm xuyên suốt trong kinh điển
Nikāya, song các học giả không cho rằng Phật giáo Nguyên thủy tin vào lý thuyết
thực tiễn về chân lý (pragmatist theory of truth).11
Chân lý là tính thiết thực lợi ích
Tính chất nhất quán của chân lý được thực nghiệm bằng tri thức
thực chứng trong lời dạy của Đức Phật được cho thấy là phổ biến và xuyên suốt,
nhưng Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng sẽ là sai nếu điều đó không đưa đến việc
đoạn trừ khổ đau.
Trong kinh Vương tử vô úy (Abhayarājakumāra), Đức
Phật cho biết rằng, “Như Lai không nói một lời mà Ngài biết là không thật, sai
lầm, vô ích, và khó chịu đối với người khác. Ngài cũng không nói một lời mà
Ngài biết là thật, hiện hữu, nhưng vô ích, khó chịu và không ưa thích đối với
người khác. Đức Phật tuyên bố đúng lúc một lời mà Ngài biết là thật, hiện hữu,
có ích, nhưng khó chịu và không ưa thích đối với người khác. Ngài không tuyên
bố một lời mà Ngài biết là không thật, sai lầm, vô ích, nhưng thích thú và dễ
chịu đối với người khác. Đức Phật cũng không nói một lời mà Ngài biết là thật,
hiện hữu, vô ích, nhưng thích thú và dễ chịu đối với người khác. Đức Phật tuyên
bố đúng thời một tuyên bố mà Ngài biết là thật, hiện hữu, có ích, thích thú và
dễ chịu đối với mọi người.”12
Như vậy, trong đoạn văn trên, chúng ta thấy tuyên bố được liệt kê
theo mối liên hệ giữa chân lý và giá trị của chúng, giữa có ích và vô ích, giữa
ưa thích và không ưa thích. Chúng có 6 loại như sau:
1. Không thật, sai lầm, vô
ích, và khó chịu đối với người khác.
2. Thật, hiện hữu, nhưng vô
ích, và khó chịu đối với người khác.
3. Thật, hiện hữu, lợi ích,
nhưng khó chịu đối với người khác.
4. Không thật, không hiện
hữu, vô ích, nhưng dễ chịu đối với người khác.
5. Thật, hiện hữu, nhưng vô
ích, và dễ chịu đối với người khác.
6. Thật, hiện hữu, lợi ích,
và dễ chịu và ưa thích đối với người khác.
Ở đây chúng ta thấy rằng Đức Phật chỉ tuyên bố điều thứ 3 và thứ 6
khi đúng thời đúng lúc, và những điều đó là thật, lợi ích, được chấp thuận và
đưa đến an lạc cho mọi người. Như vậy, có ba điều kiện mà Phật nói ra là: 1.
Đúng sự thật; 2. Đúng thời; 3. Lợi ích, (nghĩa là, có nhắm đến
một mục đích nào đó, ví dụ cảm hóa người nghe), dù người nghe có ưa thích
hay không ưa thích, có dễ chịu hay khó chịu.
Nhà Phật học nổi tiếng người Bỉ Louis de la Valleé Poussin đã giải
thích rằng chân lý tự nó không có giá trị, mà phụ thuộc vào giá trị thực nghiệm
của chúng. Điều này có nghĩa rằng điều gì đó được xem là chân lý thì điều đó
phải phù hợp với thực tế (correspondence with a fact) và phục vụ một mục đích
thiết thực hay sự lợi ích (atthasaṃhitaṃ).13 Một niềm tin hay
một tư tưởng nếu như nó không có giá trị thì không thể xem là một tư tưởng tốt
hay một niềm tin chân thật. Do đó, Đức Phật hầu như không thảo luận bất cứ
những vấn đề gì không liên hệ đến thực tế lợi ích và sự giải thoát.
Giáo lý được cho là thực tiễn này xuất phát từ trong nhiều kinh
điển mà Phật nói ra; như kinh Malunkyaputta kể ví dụ về một người bị
trúng mũi tên độc, hay những câu hỏi siêu hình thuần lý thuyết không được Phật
trả lời, hay là kiểm chứng sự thật (test of truth) trong kinh Kamala thuộc
Tăng chi bộ, tất cả đều mang tính kiểm chứng cái tri thức thực nghiệm làm suối
nguồn cho việc phát triển nhận thức đúng đắn.
Ví dụ, một đoạn trong kinh Kamala (kinh này tương ứng với
kinh Canki thuộc Trung bộ) dạy rằng: “Đừng dựa trên những điều không
đáng tin cậy như truyền thống, báo cáo, hay bởi những lời đồn đoán, bởi những
điều quyền uy trong kinh điển tôn giáo, hay điều thuần túy lý luận; cũng đừng
dựa trên sự tin cậy của nhiều người, cũng không phải vì sự kính trọng một vị
thầy mà tin.” Thay vào đó, “Hãy tin tưởng những gì quan sát với sự kiểm chứng
bằng kinh nghiệm và sự thực chứng, để tự mình xác định những gì là đúng sự
thật, là thiện hay bất thiện”.
Kinh và luận cũng sử dụng rất nhiều phương pháp luận lý để vận
dụng vai trò của nhận thức đúng đắn đối với nhận thức chân lý. Một trong những
triết gia Phật học lừng danh thế kỷ thứ VI đã vận dụng vai trò của phương pháp
luận lý đối với nhận thức đúng đắn là Pháp Xứng (Dharmakīrti) khi ngài viết
trong tác phẩm Nyāya-bindu của mình rằng: “Mọi hành động thành công của
con người đều mở đầu bằng nhận thức đúng đắn”.14 Hay trong nhiều câu
nói khác, Pháp Xứng cũng cho chúng ta thấy nhận thức luận Phật giáo rất gần gũi
với thực tiễn và thực tại. Như Pháp Xứng nói rằng, “Bản chất của thực tại chính
là tính hiệu năng” (arthakriyākaritra).15
Do đó, đối với các nhà Nhân minh học Phật giáo, sự hiện hữu, hiện
hữu chân thật, hay hiện hữu rốt ráo không khác gì ngoài tính hiệu năng của nó.
Theo họ, tính hiệu năng này mới là chân thật. Những gì không có tính hiệu năng
thì không thật. Ví dụ, trí tưởng tượng hay cấu trúc của tư tưởng là không thật,
không phải là thực tại rốt ráo. Ngài Pháp Thượng (Dharmottara), nhà sớ giải Nyāya-bindu,
thì giải thích ‘ngọn lửa thực tại’ là ngọn lửa có thể đốt cháy, nấu chín thức
ăn, thắp sáng; chứ ‘ngọn lửa tưởng tượng’, không thực tại, không thể đốt cháy,
nấu chín và thắp sáng được.
Tính thực nghiệm trong giáo pháp của Phật luôn là chủ đề xuyên
suốt và bao quát. Nó không chỉ liên quan đến những vấn đề chân thật, lợi ích,
đồng thuận, dễ chịu đối với mọi người, mà đôi khi cần phải tuyên bố những vấn
đề gai góc, khó chịu nhưng sẽ là tốt đẹp cho mọi người miễn là có thể nhổ trừ
những khối đau lâu dài như thể lấy ra một cái xương bị mắc kẹt trong cổ họng
của một đứa trẻ vì lòng thương và an ổn cho nó.
Chân lý là hòn đảo tự thân hay ngọn đèn cho chính mình
Trong kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật dạy: “Hãy là hòn đảo
tự thân, này Ananda! Hãy tự mình nương tựa chính mình; không nương tựa một gì
khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm nơi nương tựa. Không
nương tựa một gì khác.” Hay là, “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự
mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối
thượng trong hàng Tỳ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.”16
Ngoài ra, Đức Phật còn nói rằng, không phải sau khi Như Lai qua
đời thì hàng đệ tử được tự do và lời dạy của Như Lai trở thành quá khứ, mà
chính những Pháp và Luật (Dhamma Vinaya) mà Như Lai đã giảng dạy chính là thầy
của các chúng đệ tử.17 Đức Phật do đó cũng khẳng định rằng, dù cho
Như Lai có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện thì Pháp ấy cũng y như vậy, tức
là không có thay đổi.18
Ngài xuất hiện ở đời là để giảng dạy, khai ngộ; mọi việc Như Lai
đã làm xong nên Ngài vào Niết-bàn, rồi tự bản thân mỗi người hãy nương vào đó
để tu tập, vì Ngài có ở đời hay không thì những gì cần nói Ngài đã nói hết.
Ngài cũng không giấu giếm điều gì. Tư tưởng này đã xuất hiện rất nhiều trong
kinh luận Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Phát triển, và các nhà Đại thừa sau
này đã diễn dịch chữ Pháp này là Pháp tánh (Dharmatā), Chân đế (paramārthasatya),
Chân như (Tathatā), Bồ-đề (Bodhi), Niết-bàn (Nirvāṇa), và
là mục đích tối hậu trong việc tu tập.
Có nhiều câu hỏi đặt ra đối với Đức Phật là tại sao có rất nhiều
vị thầy ai cũng tự cho rằng chân lý của mình mới là đích thực, được Phật trả
lời rằng: “Tất cả chân lý đều do nhận thức mà ra”.19 Rồi Phật nói
rằng “Chúng ta giới hạn thế giới chúng ta bởi tư tưởng”.20 Lúc khác,
có người hỏi Đức Phật định nghĩa thế nào là người hoàn hảo, Ngài trả lời: “Đó
chính là người đã chiến thắng tham ái”, là “người đó không còn lo sợ thế giới
đã bắt đầu như thế nào, cũng không lo về hiện tại được đặt để ra sao… Bậc Thánh
an tịnh rõ ràng đã vượt qua thời gian”.21
Chỗ khác thì nói rõ hơn: “Bậc Thánh đã giải thoát khỏi tất cả các
kiến chấp, đã buông bỏ gánh nặng, và không còn bị thời gian chi phối nữa.”22
Rồi thế nào là người thấy biết chân thật: “Người nào đã thấy chân lý, đã nhập
vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không còn do dự. Với trí tuệ chân
chính, người ấy thấy đúng như thật (yathà bhùtam)”.23 Từ những trích
dẫn như vậy có thể thấy rằng, chân lý chính là sự tịnh lạc, tự tại giải thoát
khỏi các kiến chấp, lỗi lầm của bậc Thánh.
Do vậy, những lời dạy của Đức Phật về ‘ngọn đèn’cho chính mình, là
‘hòn đảo tự thân’ là chỗ y cứ đáng tin cậy nhất, bởi vì chân lý chính là tự
mình chứng ngộ và chiêm nghiệm lấy. Đây cũng là ý nghĩa của bài kinh Kamala
như đã nói ở trên.
Chân lý là Trung đạo
Trung đạo là tránh hai cực đoan ‘thường hằng’ (eternalism/
sassatavāda) và ‘đoạn diệt’ (annihilationism/ ucchedavāda). Nhiều chân
lý quan trọng trong Phật giáo được cho là nằm giữa hai thái cực này. Với một
bên thì cho là ‘tất cả sự vật hiện hữu’ (sabbaṃ atthi) là một thái cực (eko
anto), và bên kia thì khẳng định ‘tất cả sự vật không hiện hữu’ (sabbaṃ
natthi) là một thái cực khác. Do đó, Đức Phật đã giảng dạy chân lý phải
tránh hai thái cực này, tức là chân lý nằm ở trung đạo (majjhimā paṭipadā).24
Trung đạo cũng là nội dung chính của bài kinh Chuyển Pháp luân được Đức
Phật thuyết giảng lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển.25 Nội dung kinh
này nói về việc tránh xa hai cực đoan là khổ hạnh thân xác (attakilamathānuyoga)
và đắm say dục lạc (kamasukhallikānuyoga). Cả hai thái cực này đều được
Đức Phật khẳng định là không đem đến việc tìm thấy chân lý và giải thoát giác
ngộ. Tránh hai cực đoan này là con đường đưa đến Trung đạo mà Đức Phật đã tu
tập, đã chứng ngộ, khiến phát sanh trí tuệ, thấy biết chân thật, đưa đến an
tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Kế tiếp, Đức Phật nói về con đường Trung
đạo, đó là Thánh đạo có tám phần, bao gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Con đường
Trung đạo với Thánh đạo tám phần này là con đường duy nhất đưa đến việc nhận ra
chân lý tối thượng.
Chân lý là Duyên khởi và Tánh không
Tánh không là thể tánh rốt ráo của tất cả sự vật hiện tượng. Thật
vậy, tất cả sự vật hiện tượng được phân biệt đều không có thực thể hay thể tánh
riêng biệt, do vì chúng được tạo thành từ các nhân và duyên. Các nhân duyên hợp
lại nên có sự xuất hiện gọi là sanh. Khi các nhân duyên tan rã thì chúng không
còn nữa nên gọi là diệt. Do đó, chúng không thật sanh mà cũng không thật diệt,
vì các sự vật hiện tượng là vẫn y như vậy. Chúng chỉ là sự kết hợp và tan rã.
Không có cái gì sanh ra mà cũng không có cái gì mất đi. Chúng chỉ là sự biến
chuyển theo lý Duyên khởi. Sự vật sanh diệt như thế nên gọi là nhân duyên sanh
và nhân duyên diệt. Tóm lại, chúng chỉ là sự vật do kết hợp mà thành nên xuất
hiện như vậy chứ kỳ thực không có cái gì sanh ra cái gì.
Theo lý duyên sanh thì khi nhân duyên hòa hợp tạm gọi là sanh; khi
nhân duyên phân ly tạm gọi là diệt. Sanh không thật sanh mà diệt không thật
diệt. Trên bề mặt hiện tượng thì có sanh có diệt, nhưng về mặt bản thể thì
không thật sanh diệt. Đây chính là ý nghĩa của lý Duyên khởi, là Tánh không, là
Trung đạo mà giáo lý Trung quán đã nói rất rõ. Do đó mà chân lý còn được gọi là
Tánh duyên khởi, hay Tánh không.
Tất cả các sự vật hiện tượng đều chuyển biến liên tục như thế nên
không có cái gì tồn tại lâu dài và cố định cả nên gọi vô thường, là không, là
vô ngã. Chúng không chỉ vô thường hoại diệt, mà là hoại diệt trong từng sát-na
(kṣaṇa), một khoảnh khắc ngắn nhất của thời gian!
Ngoài ra, khi phân tích sự vật hiện tượng, chúng ta không tìm thấy
một tính chất cố định, tự thân của sự vật hiện tượng đó. Tánh không ở đây được
hiểu là thể tánh không, không có tính chất cố định, độc lập, riêng biệt làm thể
tánh riêng của từng sự vật hiện tượng. Ví dụ, con người là sự cấu tạo của Năm
uẩn mà không có cái gọi là ta, của ta, hay tự ngã của ta. Một cái thùng gỗ khi
chúng ta tháo gỡ các bộ phận của nó ra rồi đem làm thành một cái bàn, cái ghế,
thì cái thùng gỗ sẽ không còn nữa. Nếu ai đó nhìn cái bàn, cái ghế đó mà cho đó
là cái thùng gỗ thì người đó bị cho là nói sai sự thật. Tất cả các sự vật hiện
tượng được thiết lập, được nhận biết đều do ý thức phân biệt tạo thành.
Chân lý là một hay nhiều?
Trong giáo lý Phật giáo Nguyên thủy, chân lý được cho là chỉ có
một, không hai và sai khác. Đó là tuyên bố được nêu lên trong kinh Tập:
Chân lý chỉ có một không có hai. Chỉ những ai không hiểu mới tuyên
bố có nhiều chân lý.26
Tuyên bố này được hiểu như thế nào trong bối cảnh của Phật giáo?
Nhiều người khi đi sâu nghiên cứu đã cho rằng khi Đức Phật nói về chân lý chỉ
có một là muốn nói lên rằng những tuyên bố không nên trái ngược nhau và cùng
hướng đến một mục đích và nhất quán. Kinh điển Nguyên thủy có khuynh hướng chỉ
nói đến một chân lý, hay đúng hơn là các tuyên bố khác nhau đều diễn bày cùng
một mục đích. Chúng có kết quả từ sự nhất quán với thực tại và phù hợp với lời
Phật dạy gọi là Pháp. Những gì phù hợp với Pháp đều được gọi là sự thật, hay
chân lý. Những gì không phù hợp với Pháp, hay ‘sự thật trong chính nó’ thì bị
xem là sai lạc. Do đó, chân lý chỉ có một đó là sự hợp nhất không chống trái,
không mâu thuẫn, nhất quán và phù hợp với thực tại tối thượng mà Đức Phật chứng
ngộ. Chân lý này thường được hiểu là chân lý giác ngộ, hay Niết-bàn.27
Trong kinh Tăng chi bộ có nói về sự khác nhau giữa hai loại
kinh, đó là kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Từ căn bản này được các nhà
chú giải phân biệt thành hai loại giáo pháp khác nhau và các nhà Đại thừa đã áp
dụng chúng thành hai loại thực tại hay chân lý đã được phát triển thành một học
thuyết Nhị đế khá phong phú và phức tạp sau này.
Ngoài ra, ngay từ ban đầu, Đức Phật đã thuyết minh về bốn chân lý
cao thượng gọi là Tứ Thánh đế. Vậy điều này có trái với tuyên bố được nói trong
kinh Tăng chi bộ? Để chứng minh cho điều này là không mâu thuẫn, chúng
ta cần thấy rằng ngay từ ban đầu, Phật giáo đã tin tưởng về Pháp và Tứ Thánh đế
là thật và sẵn sàng chứng minh bằng lý luận và kinh nghiệm tu tập. Hơn nữa, khi
Đức Phật nói chân lý về sự chấm dứt của khổ (nirodhasatya), Ngài muốn đề
cập đến mục tiêu giải thoát thật sự, đó là Niết-bàn. Chính Đức Phật đã nói
trong Tăng chi bộ rằng ‘giáo pháp của Ta chỉ có một vị đó là vị giải
thoát’.28 Các nhà bộ phái đã ủng hộ quan điểm này khi cho rằng khái
niệm về một chân lý chính là sự giải thích đúng đắn về Tứ Thánh đế. Họ cũng nỗ
lực để củng cố khái niệm về một chân lý hợp nhất và bất khả phân với khái niệm
của Nhị đế và Tứ đế.29
Chân lý là sự yên lặng của bậc Thánh
Trong kinh Thánh cầu thuộc Trung bộ, Đức Phật dạy rằng khi
hội họp với nhau có hai việc các Tỳ-kheo hãy cùng nhau làm đó là luận bàn đạo
pháp hay giữ sự yên lặng của bậc Thánh. Luận bàn đạo pháp là nói năng, đàm
luận, thảo luận, thưa hỏi, trao đổi các vấn đề Phật pháp để tìm hiểu nghĩa lý
đúng sai, phù hợp, không phù hợp mà áp dụng tu tập cho đúng Chánh pháp; còn giữ
sự im lặng của bậc Thánh là khi không có điều gì cần nói thì hoặc là quán
chiếu, tư duy, suy nghĩ, suy xét nghĩa lý kinh điển, lời dạy bằng chính hiểu
biết và kinh nghiệm tu tập để tự mình soi xét, kiểm chứng những chân lý và giá
trị đó, hoặc là giữ sự yên lặng của Phật như là một phương pháp chặt đứt mọi tư
duy thuần lý, phá bỏ tính cách quy ước của ngôn từ mà thấu hiểu bằng sự trực
nhận, trực giác, bằng kinh nghiệm tu tập của trí tuệ và sự chuyển hóa của tâm
linh. Sự yên lặng của Phật là sự yên lặng của tâm thức hay ý căn, loại bỏ tất
cả những tư tưởng nhị nguyên, đối đãi, bám víu với một tâm thức hoàn toàn vắng
lặng, tịch tĩnh.
Sự yên lặng của Phật được ngài Ca Diếp thấu hiểu trong hội Linh
Sơn khi Đức Phật đưa cành hoa sen lên mà không nói năng gì. Ngài Ca Diếp hiểu
được chân lý mầu nhiệm trong sự yên lặng của Phật nên mỉm cười trong bài kệ gọi
là ‘Niêm hoa vi tiếu’. Sự yên lặng của Phật đã được các nhà Phật học sau này
khai triển và ứng dụng để khai mở tâm tánh của người tu tập, để trực nhận bản
tánh của mọi sự. Nó như là một phương pháp để tạo ra một mối nghi, đúc kết
thành một khối để đến một lúc chín mùi nào đó sẽ ‘hốt nhiên đại ngộ’. Đó là cái
được Thiền tông giải thích là ‘bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ
nhân tâm, kiến tánh thành Phật’; hay là cách thức sử dụng công án của các Thiền
sư để liễu ngộ mà không trực tiếp nói ra.
Sự yên lặng của Phật là để nói lên rằng thật tướng là vô ngôn,30
là chỗ ‘ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt,’31là cái không thể lý
luận suy lường,32 là cảnh giới ‘bất khả tư nghị.’33 Bởi
vì thật tướng là vô tướng, vô tướng thì bặt nói năng, suy lường của tâm phân
biệt đối đãi, mà nói ra ắt thành hư vọng sai biệt của phạm vi tục giới. Đó
chính là thể nhập vào pháp môn bất nhị của Bồ-tát, là bản thể chân như của mọi
sự vật hiện tượng.
Kết luận
Ai cũng biết rằng, để có một đời sống an lạc và hạnh phúc thì ai
ai cũng cần phải giữ gìn lời nói thành thật, tránh nói sai sự thật. Nói lời
chân thật là đem lại hạnh phúc và an lạc cho chính mình và mọi người. Trong xã
hội cũng vậy, việc nói sai sự thật có nguy cơ gây bất ổn xã hội. Do vậy, việc
nói lên sự thật là một trong những yếu tố căn bản và cần thiết để xây dựng một
xã hội văn minh và hạnh phúc. Trong Phật giáo cũng vậy, nói lời chân thật là
một trong những giới điều căn bản của người Phật tử nói chung. Ngoài việc tuân
giữ giới nói lời chân thật, người Phật tử còn phải giữ gìn thêm những điều đi
kèm đó là: (a) không nói lời thêu dệt có thể gây chia rẽ và bất hòa trong xã
hội nhằm đem lại sự hài hòa và hiểu biết trong xã hội, (b) không nói lời hung
ác, mà phải nói lời tử tế, dịu dàng, (c) không nói lời phù phiếm vô ích, mà
phải nói đúng thời, đúng chỗ, và lợi ích.
Những căn bản trên đây là tiêu chuẩn cho vấn đề nhận thức Phật
giáo về chân lý. Đó là những gợi ý, những chỉ dẫn, những cách thức diễn đạt
được tìm thấy trong Kinh tạng nhằm thuyết minh về vấn đề chân lý. Chân lý sẽ
không có ý nghĩa nếu không đặt trong một ngữ cảnh thực tế và không đưa đến lợi
ích và mục tiêu giải thoát. Ở đây, cần thấy rằng những gì Đức Phật giảng dạy
không nằm ngoài những vấn đề căn bản của đời sống, những điều có thể nhận biết
dựa trên kinh nghiệm và sự thực chứng làm cơ sở cho vấn đề nhận thức đúng đắn
để đưa đến chỗ giải thoát. Thực sự, Đức Phật rất khắt khe trong việc chỉ ra một
điều gì đó, một nhận thức nào đó là chân lý khi chưa có những nhận thức căn bản
làm nền tảng cho nhận thức cao hơn về giáo Pháp.
Thích Vạn Năng
Nguồn Giác Ngộ online
Nguồn Giác Ngộ online
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét