Bài giảng về Phật Giáo của Sư Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh), trụ trì
Huyền Không Sơn Thượng Huế:
“Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp Như thực - tức là giáo pháp Cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian.
Đôi
nơi, đạo Phật còn
bị trộn lẫn với tín
ngưỡng duy linh và
cả tín
ngưỡng nhân
gian nữa... Nhiều lắm, không
kể xiết đâu.
Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi
xin mạo muội liệt kê
ra đây những hiểu lầm tai hại
và
rất phổ biến của Phật giáo
trong và ngoài nước để chư vị thức
giả cùng
thấy rõ
Như thực:
1- Tôn giáo:
Đạo Phật có
những sinh hoạt về tôn
giáo nhưng đạo Phật không
phải là
tôn giáo, vì đạo Phật không
có một vị thượng đế tối cao hoá
sinh muôn loài và có quyền
ban thưởng, phạt ác.
2-
Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học:
Đạo Phật có một
hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán”
rồi “đoán”
như của Tây
phương.
4-
Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo
của đức Phật luôn
đi từ cái
thực cụ thể để hướng dẫn mọi người
tu tập, nó không có triết, có luận
đâu.
Ngay “thiền” mà
còn “luận” (thiền luận) là
đã đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn,
áo vuông một cách
uổng phí.
Đạo Phật còn
có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó
là giáo dục, văn hoá,
nghệ thuật, tu tập thiền định và
thiền tuệ nữa. Từ thiện xã
hội thì
ai cũng làm được, thậm chí
người ta còn
làm tốt hơn cả Phật giáo,
ví dụ như Bill Gates. Còn
giáo dục, văn hoá,
nghệ thuật của đạo Phật là
nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm
các giá trị nhân
văn, nhân bản) mà
không một tôn
giáo, môt chủ nghĩa, một học
thuyết nào
trên thế gian có
thể so sánh
được. Và
đây mới là
sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật
cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!
6-
Cực lạc, cực hạnh phúc:
Đạo Phật có
nói đến hỷ, lạc trong các
tầng thiền; có
nói đến hạnh phúc
siêu thế khi ly thoát
tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền
não
của thế gian - chứ không
có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh
phúc
được phóng
đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn:
Đạo Phật có
nói đến 8 vạn 4 ngàn
pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không
nói đến 8 van 4 ngàn
pháp môn (dhammadvāra). Uẩn
(khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm,
liên kết, tập hợp ví
như Giới uẩn (nhóm
giới), Định uẩn (nhóm
định), Tuệ uẩn (nhóm
tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch
lệch ra môn - cửa
(dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào
cũng được! Ai là
người có
thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn
cửa pháp
này? Còn nữa, xin lưu ý,
8 vạn 4 ngàn
chỉ là
con số tượng trưng, có
nghĩa là nhiều lắm, đếm không
kể xiết theo truyền thống tôn
giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời.
Ví
dụ 84 ngàn
lỗ chân
lông, 84 ngàn vi trùng trong một
bát
nước, 84 ngàn
phiền não,
84 ngàn cách tu...
8-
Xin xăm, bói quẻ,
cầu sao, giải hạn, xem ngày
giờ tốt xấu:
Những hình
thức này
không phải của đạo Phật.
Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ
sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu.
Padakkhinaṃ
kāyakammaṃ
vācākammaṃ
padakkhinaṃ
padakkhinaṃ
manokammaṃ
paṇidhī te padakkhinā...”
Có
nghĩa là: Giờ nào
(chúng ta) thực hành
thân, khẩu, ý
trong sạch; giờ đó
được gọi là
vận mệnh tốt, là
giờ tốt, là
khắc tốt, là
canh tốt... Ngày
đó gọi là
có nghiệp thân
phát đạt, nghiệp khẩu phát
đạt, nghiệp ý
phát đạt. Và
nguyện vọng theo đó
được gọi là
nguyện vọng phát
đạt. Người tạo nghiệp thân,
nghiệp khẩu, nghiệp ý
phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi
ích
phát đạt (chữ phát
đạt có
thể có
thêm nghĩa nhiêu ích).
9-
Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh
4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
10-
Siêu độ, siêu thoát:
Không có bài kinh nào, không có uy lực
của bất kỳ ông sư, ông thầy nào
có thể tụng kinh siêu
độ, siêu
thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài
kệ vô
thường, khổ và
vô ngã để thức tỉnh người sống;
và
hiện nay các
nước Phật giáo
Theravāda còn duy trì. Có thể
có
hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông
mõ, hương trầm... để “thần thức
người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
-
Nếu thần thức đã
lìa khỏi thân
rồi – thì
họ đã
tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức
khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã
mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng
cũng phải tự lực: “Tự mình
thắp đuốc mà
đi, tự mình
là hòn đảo của chính
mình”.
Chư
thiên chỉ có
khả năng hoan hỷ phước và
báo truyền thông
tin ấy cho người quá
vãng mà thôi. Họ không
có uy lực ban phước lành
cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào
bí mật để giấu kín
cả!
12- Tâm linh:
Ngày nay, người ta tràn
lan lễ hội, tràn
lan mọi loại điện thờ với những hình
thức mê
tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá...
mà ở đâu
cũng rêu rao các giá trị tâm
linh. Đạo Phật không
hề có
các kiểu tâm
linh như vậy. Thuật ngữ tâm
linh này được du nhập từ Trung
Quốc. Và
rất tiếc, tôi
không hề tìm
ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có
từ nào
tương thích với chữ “linh” này
cả!
13- Niết-bàn:
Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn
là ở một cõi
nào đó, một nơi chốn nào
đó; thậm chí
là ở một thế giới ở ngoài
thế gian này.
Người nào
tìm kiếm Niết-bàn
kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông
có cụm từ “lông
rùa, sừng thỏ” như ngài
Huệ Năng đã
nói rõ: “Phật pháp
tại thế gian. Bất lý
thế gian giác.
Ly thế mịch bồ-đề. Cáp
như tầm thố giác”.
Thố giác
là sừng thỏ. Và
giác ngộ cũng vậy, chính
ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15-
Tu để được cái gì!
Có nhiều người nghĩ rằng, tu là
để được cái
gì đó. Xin thưa, được cái
gì là sở đắc. Ai sở đắc?
Chính
là bản ngã
sở đắc. Đạo Phật là
vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã
tâm kinh.
16-
Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không
sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng
ở Cái
Thấy! Có
Cái Thấy mới nói
đến giác
ngộ và
giải thoát.
Không có Cái Thấy này
thì tu kiểu gì
cũng trệch hướng hoặc rơi
vào
phước báu
nhân thiên.
17-
Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía,
nữ chín
vía. Nếu là
nam thất, nữ cửu thì
nó trùng với nam 7 khiếu, nữ
9 khiếu. Vía là phần
hồn. Không
có cái hồn, cái
linh hồn tự tồn tại nếu không
có chỗ nương gá.
Vía không độc lập được. Như
danh - phần tâm, sắc
- phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách
lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi
trời Vô
tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên,
cõi trời Vô
tưởng hữu tình
này không phải là
không có danh tâm mà chúng ở
dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn
hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát:
Bồ-tát
là âm của chữ Bodhisatta:
Chúng
sanh có trí tuệ. Vậy, chúng
ta tạm thời bỏ quên
“khái niệm Bồ-tát”
quen thuộc trong kinh điển
mà
trở về với nghĩa gốc là
“chúng sanh có trí tuệ”. Và
như vậy, sẽ có
hạng chúng
sanh có trí tuệ với nguyện lực
Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh
có trí tuệ với nguyện lực Chánh
Đẳng Giác.
Ngoài 3 loại chúng
sanh có trí tuệ trên
– không có loại chúng
sanh có trí tuệ nào
khác.
19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và
hạnh nên
gọi là
Chánh Đẳng Giác.
Không
có vị Giác
ngộ (Phật) nào
ngoài 3 loại Giác
ngộ trên.
20-
Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế.
Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh
niệm, tỉnh giác
trọn vẹn với cái
đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác
trọn vẹn với cái
nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác
trọn vẹn với cái
ăn – thì đấy mới đúng
nghĩa “thể nhập pháp
giới”, ngay giây
khắc ấy, mọi tham sân,
phiền não
không có chỗ để phan duyên,
sanh khởi.
(Nguồn: FB Claire Huynh.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét