Trong
thời đại được gọi là văn minh như hiện nay vẫn xuất hiện không ít những người
tự xưng là giáo chủ, thánh chủ, thượng sư hay đạo sư. Có người tự cho rằng được
thánh nhập, chỉ cần theo họ tu bảy ngày mở bảy luân xa là đắc đạo thành tiên
thánh rồi dùng nhiều cách thức mê hoặc, dẫn dụ người đi theo vì nhiều mục đích
khác nhau. Điều này ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, trong đó có cả
những Phật tử hiền lành chất phác.
Là
người con của Đức Phật, chúng ta không thể làm ngơ, nên bài viết này với hy
vọng góp phần chỉ rõ, ai mới là bậc thầy, bậc thiện tri thức đúng nghĩa để mọi
người có thể nương tựa học hỏi, và tu hành theo đúng Chánh pháp.
Làm
thế nào để mọi người có thể nhận diện được một con người giác ngộ, tịch tĩnh có
đầy đủ trí tuệ và đức hạnh ở đời? “Trước hết, đó là một người đã buông bỏ hết
tất cả những hận thù trong quá khứ, một người không còn mơ tưởng, vướng mắc gì
vào tương lai. Và cả chính trong hiện tại người đó cũng không vướng vào hư danh
và sự tôn kính của người đời. Người đó là một bậc Mâu Ni, một người toàn thiện”
(Kinh Cha con gặp nhau, Đại chánh tân tu 198, Thích Nhất Hạnh dịch).
Một
người bình thường như tất cả những người khác, nhưng đã buông bỏ được tất cả
những giận hờn, hận thù, lo lắng, phiền muộn, ân oán trong quá khứ; không dính
mắc, chấp trước hay mơ mộng hão huyền vào những mong cầu ở tương lai; cũng
không vướng mắc vào những gì trong giây phút hiện tại. Bởi người đó đã thấu rõ quá
khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, hiện tại đang luân chuyển đồng thời
nhìn thấu danh lợi, địa vị vốn không thật có, nên không vướng mắc vào hư danh,
tâm của vị ấy không bị dao động bởi sự tôn kính hay bất kính của người đời.
Người như vậy chính là bậc trọn lành, tịch tĩnh, đức hạnh đầy đủ, hoàn toàn ung
dung và tự tại ở đời.
Theo
lời Phật dạy, trong tám con đường chân chính đưa mọi người đến nơi an vui hạnh
phúc thì chánh kiến, tức là cái thấy biết chân chính đứng đầu, muốn có chánh
kiến trước hết phải buông bỏ tất cả các tà kiến kể cả tư kiến.
Vì
không ưu sầu về quá khứ, không vướng mắc vào tương lai, lại buông bỏ được mọi
sự tham cầu, không còn chấp vào cái ta và cái của ta, nên vị ấy đã nhìn thấu thực
tính của các pháp và vượt qua mọi nỗi sợ hãi, lòng tin chân chính được củng cố vững
chãi, tâm không còn dao động trước ngoại cảnh. Như vậy, những nghi nan trong
lòng của vị ấy tự nhiên tiêu trừ, xa lìa lòng ganh tỵ, an trụ trong hiện tại
nhiệm mầu, tâm luôn an vui với cuộc sống hiện tại. Nhất là nếp sống của vị ấy vô
cùng đơn giản, thanh thơi và tự tại.
Vị
ấy có khả năng làm chủ chính mình, làm chủ cuộc đời mình, không bị lòng tham
dục bên trong hay những lạc thú bên ngoài kéo đi. Đi đứng nằm ngồi, vị ấy luôn tỉnh
giác, luôn tự tiết chế, điều độ trong ăn uống ngủ nghỉ, không bị nô lệ cho đam
mê, tập khí hay thói quen. Rất nhiều người thường tự hào về những thành tựu
trong sự nghiệp tiền tài, danh vọng, địa vị, nhưng suốt đời họ sống nô lệ cho
lòng tham dục, si mê của mình mà họ không biết. Thật đáng thương thay!
Tu
tập để ngày càng làm chủ bản thân mình nhiều hơn là một việc rất quan trọng và cần
thiết. Với trí tuệ tịch tĩnh, vị ấy đã nhìn rõ thật tướng các pháp nên đã hoàn
toàn xa lìa được lòng ganh ghét, đố kỵ; xa lìa sự nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói
lời hung ác, không nói lời trau chuốt giả tạo; buông bỏ mọi hý luận không có lợi
ích thật sự cho sự giác ngộ giải thoát; tâm không còn hoài nghi, ngờ vực về con
đường tu hành.
Vị
ấy biết rõ, nguyên nhân của khổ đau là tham vọng quá nhiều, nên xa lìa được dục
vọng. Tâm ý của vị ấy không còn bị trói buộc vào bất kỳ thứ gì, được tự do một
cách trọn vẹn. Những sợi dây phiền não không còn nơi để phát huy tác dụng được
nữa. Không còn vướng mắc, chấp trước vào những cái thấy của riêng mình. Miệng
không còn nói những lời thêu dệt, hư vọng. Bước chân của vị ấy chậm rãi, thảnh
thơi, vững chãi, an lành. Tâm vị ấy không còn mọi ý tưởng tham dục, ham muốn.
Vị ấy luôn tỉnh táo và nhẫn nại, có khả năng hóa giải mọi sự cãi cọ, tranh chấp,
hơn thua bằng trí tuệ và từ bi.
Vị
ấy nhận rõ rằng, mọi dục tưởng là do tri giác sai lầm đưa tới ham muốn. Nếu
không có dục tưởng thì sẽ không có ham muốn. Do chúng ta tham muốn tìm cầu
nhiều thứ, nào là tiền tài, danh vọng, quyền hành, nữ sắc…, vì cứ nghĩ chúng sẽ
đem lại cho mình an lạc và hạnh phúc, cho nên chúng ta khổ đau nhiều. Còn vị ấy
biết rõ, một khi bị vướng vào những thứ đó rồi mình sẽ mất hết hạnh phúc, thảnh
thơi, an lạc mà chỉ còn lại toàn là đau khổ.
Lòng
vị ấy đã trong sạch và sáng suốt, nên không còn mưu toan hay thủ đoạn để thỏa
mãn sự ham muốn bản thân - ngay cả việc thành tựu được một mức độ nào đó trong tu
học - cho nên không buồn phiền, lo lắng hay oán giận khi không có được hay mất
mát thứ gì. Nhất là vị ấy đã đoạn trừ được sự luyến ái, không còn bị nô lệ cho ái
dục. Đây là một điều rất khó làm được, vì sở dĩ chúng ta có mặt trong cuộc đời
này là do ái dục; chúng ta trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi, chịu đủ mọi đau khổ
triền miên cũng là do ái dục. Ái dục chính là nguồn gốc của sinh tử luân hồi,
là nguyên nhân của khổ đau, nên xa lìa được ái dục tức là an vui giải thoát.
Vị
ấy quán chiếu sâu và thấy rõ tất cả mọi chúng sinh đều có thật tánh bình đẳng,
tất cả các pháp thật sự bình đẳng, đạt đến cái thấy vô ngã, nên xa lìa được hai
trạng thái tự cao và tự ti, không còn mặc cảm hay tự mãn, không còn ý tranh
luận hơn thua với người. Vị ấy luôn kiểm soát tâm ý không để buông lung theo cảnh
vật bên ngoài, nhìn thấu, hiểu rành các pháp thiện và pháp ác, cũng không kẹt
vào thiện ác, suy nghĩ không còn dấu vết và sai lầm.
Người
nào chưa đạt đến cái nhìn vô ngã, chưa thấu rõ thật tánh bình đẳng của các
pháp, thì chưa thể xem là bậc đạo sư được. Đây chính là cơ sở quan trọng nhất
để nhìn nhận ai là đạo sư chân thật.
Vị
ấy dùng trí tuệ quán chiếu, thấu rõ tự tánh của các pháp, bản chất của mọi sự
vật hiện tượng, nên không còn bị trói buộc hay vướng mắc vào bất kỳ pháp nào,
cũng không còn kẹt vào hai đầu đối đãi có và không, do đó không có gì là không
vượt thoát được.
Tâm
vị ấy đã tịch tĩnh, lòng tham ái cũng không còn, những vô minh, những ham muốn,
những cám dỗ, lạc thú trong cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc không còn làm cho
tâm vị ấy dao động. Vị ấy thực sự là một người tự tại đối với các pháp, tâm đã hoàn
toàn buông xả, không còn bị cái gọi là sở đắc trói buộc.
Đó
là người đã vượt qua biển sầu khổ đến nơi không còn bất kỳ âu lo, phiền muộn gì
nữa.
Bậc
đại trí tuệ chỉ rõ cho chúng ta thấy được, người mà còn muốn có con trai để nối
dõi tông đường, kế thừa sản nghiệp, lòng muốn tích trữ tiền bạc của cải cho
nhiều, cái mình không thích thì chán ghét, thứ mình thích thì bo bo gìn giữ,
thì chắc chắn người ấy không phải là người thanh tịnh, không phải là chân tu,
cũng không phải là đạo sư đích thực.
Một
bậc đạo sư đích thực là tâm vị ấy thực sự xa lìa được cả hai thái cực ham muốn
và ghét bỏ, tức là không còn ham muốn bất cứ cái gì, cũng không chán ghét bất
kỳ cái gì.
Vị
ấy là người thấy đạo, đã xác định rõ con đường cần phải đi, tâm ý đã hoàn toàn an
tịnh sáng suốt, vượt ra ngoài tác động của những sự khen ngợi hay chê bai, tôn
kính hay xúc phạm. Tức là khi bị chê bai, xúc phạm, vị ấy không còn khởi ý nóng
giận; khi được khen ngợi, tôn kính, vị ấy không cảm thấy tự cao tự mãn, kể cả
khi bị vu oan vị ấy cũng không còn muốn bào chữa, minh oan cho mình.
Những
ý niệm tham lam, keo kiệt, ganh ghét hoàn toàn không còn hiện hữu trong tâm vị
ấy, ý niệm tự cao tự mãn hay mặc cảm tự ti cũng hoàn toàn được tịnh trừ không
còn dấu vết. Tâm vị ấy đã được kiên định, lời nói, việc làm và suy nghĩ không
còn mảy may sai lầm.
Vị
ấy đã thấu rõ tính Không, liễu ngộ thực tính của vạn pháp, hiểu hết bản chất
của mọi sự vật, hiện tượng, không còn mong cầu bất kỳ cái gì, cũng không thấy
mình có bất kỳ sở đắc nào, vượt ra ngoài những ham muốn phàm tục của thế gian.
Tâm
vị ấy hoàn toàn tĩnh lặng, sáng suốt và an ổn, ý của vị ấy đã không còn buông
lung. Vị ấy thật sự đã vượt ra ngoài mọi sự ràng buộc, giải thoát ra khỏi mọi
khổ đau trong sinh tử luân hồi, sạch hết mê lầm và sợ hãi, là con người tịch
tĩnh, sáng suốt, chứng ngộ Niết-bàn.
Như
vậy, con người trí tuệ tịch tĩnh của dòng họ Thích Ca đã đích thân minh chứng
cho tất cả mọi người trên thế gian này thấy rõ một chân lý lớn: Từ một con
người bình thường sống trong khổ đau triền miên, bị trói buộc trong vòng sinh
tử luân hồi như bao người khác, nhờ vào sự nỗ lực cố gắng tu tâm dưỡng tính
đúng phương pháp của tự thân, hoàn toàn có khả năng giải thoát bản thân ra khỏi
mọi sự ràng buộc, đạt đến an vui, tự do, tự tại với ý nghĩa toàn vẹn nhất.
Thích
Hạnh Tuệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét