Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

THIÊN NHAI CHIẾT BÚT - Tỳ khưu Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)



                                                 THIÊN NHAI CHIẾT BÚT
                               Tỳ khưu Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

(Bài thơ Đường Luật “thất ngôn bát thập cú” này, dành để trân tặng, quý tặng chư vị đạo hữu, thân hữu, thi hữu, văn hữu, bằng hữu... như một lời tri tạ, bỏ bút trước khi ẩn tích – từ ngày 16, tháng giêng, Đinh Dậu, 2017 đến ngày 16, tháng giêng, Canh Tý, 2020)
 
                                             

Hai lần “nhập thất” ở hai nơi
Một ở làng quê, một núi đồi 
Đúng hẹn lại lên, ba tuế nữa
Đến kỳ phải ẩn, bảy tư rồi
Bệnh, già, thần chết không tha mạng!
Danh, lợi, ông câu chẳng chán mồi?
Bao tủ sách, kinh, không đọc nữa
Mấy gùi bút, giấy, quẳng đi thôi

Nhục vinh, chèo quẫy, tay run mỏi
Phải trái, nghĩ lung, óc rối bời
Lá trúc qua sông, câu chữ đắm!
Bè lau vượt biển, tứ từ trôi!
Cửa mây, khoá mãi, mây ngăn chướng
Động đá, khép hoài, đá hoá vôi!
Gắng đọc con tâm, không luỵ nghĩa
Cố tìm cái thực, chẳng mê lời

Năm canh, niệm giác, xem dê, khỉ
Sáu khắc, tỉnh không, ngắm tiết, thời
Thiền toạ tê chân, đau chớ ráng!
Kinh hành mỏi cẳng, mệt bèn ngơi!
Tự do chốc lát, miền trong trẻo
Giải thoát khắc giây, cõi rạng ngời
Cho chú lằn nâu, ti kẹo, bánh
Tặng đàn kiến đỏ, chút cơm, xôi

Mắt nghe, rõ rệt, làn mi động
Tai thấy, mơ hồ, hạt móc rơi
Tham vọng trong ngoài, đều lặng tiếng
Mê cuồng đây đó, thảy im hơi
Rừng “tư”, khám phá, “lòi” ma, quỷ
Núi “hoặc”, điều nghiên, “chộ” ngợm, người
Luống thẹn tròn đầu, dây tóc bẩn
Ngùi thương vuông áo, lấm thân hôi

Xênh xang xe ngựa, tham càng đắm
Hý hửng sang giàu, dục chẳng vơi
Đã sợ gieo nhân, ươm giống loại?
Còn lo thọ quả, cấy mầm phôi?
Vài giây thả rỗng, nhàn thơ thới
Bao kiếp bíu vin, mỏi rã rời
Ngọ nguậy kiến tri, “đùn mối gặm!”
Lắc lư trí tưởng, “gãy dầm bơi!”

Non sâu, ví lạm, tình sâu ẩn
Mắt trắng, như dường, nghĩa trắng phơi
Đá sỏi, chông gai – tâm cấy hạt
Khổ đau, phiền chướng - tuệ vươn chồi
Ngu nhân, cam chịu thân nhồng, sẻ
Hiền giả, ngùi thương kiếp kiến, ruồi
Mịt mịt, “si” um, mờ thế địa
Rần rần, “hận” cháy, nóng trần khơi

Suy lòng, hạnh nguyện, gìn y bát
Nghĩ bụng, công phu, giữ giống nòi
Nhân lý, chân cùm, đau cổ cẳng
Nghĩa tình, lệ chảy, xót con ngươi
Đâu vui, đâu khổ nên rành rẽ
Chỗ nợ, chỗ duyên phải rạch ròi
Chân dẫm than hồng, ghê lửa bỏng
Tay thò chão nóng, khiếp dầu sôi

Dẫu hay, thế sự luôn thay đổi
Vẫn biết, nhân tâm mãi chuyển dời
Được mất, lo âu, còn thấm thía?
Hơn thua, sợ hãi, đã ngoai nguôi?
Hang mây, gió vẹt lời huyên sáo
Vách đá, trăng dòm miệng đãi bôi
Nên nhớ, xuất gia, thuyền lướt ngược
Chớ quên, tại thế, nước về xuôi

Tháng ngày, ăn uống, mùi chay lạt
Hôm sớm, xả buông, vị mặn mòi
Ác dục chích châm, tiêm mấy nẻo
Độc sân cắn mổ, nhiễm bao đời
Ranh ma, xảo quyệt - tinh chồn cáo
Dõng lực, kiêu hùng - tính hổ voi
Bậc trí nhẹ vui, duyên dứt áo
Kẻ ngu, nặng khổ, nghiệp nằm nôi

Khung xanh, vén khói, trăng cười mỉm
Nước đục, tháo lừ, cá giỡn chơi!
Lưới nhện dày, thưa, trùm đã chặt?
Sợi hồng tơ, mảnh, buộc còn lơi?
Thênh thang giải thoát, lìa tham giận
Bát ngát tự do, đọ biển trời
“Đọc sách” ba năm, ta “diện bích”
Sát-na, mỗi mới, mới tinh khôi!


Ngoạ Tùng Am, Đông 2016
Tỳ-khưu Giới Đức
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)

 

Không có nhận xét nào: