------------------------------------------------------------------------
TÂM
BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO
Từ
trước tôi thường nói "tâm bình thường là đạo", song chỉ nói tổng quát
hoặc nói xa gần để quý vị thầm nhận, chớ không nói thẳng. Hôm nay tôi chỉ thẳng
để quý vị thấy và nhận ra để ứng dụng tu hành.
Triệu
Châu đến hỏi Ngài Nam Tuyền:
-
Thế nào là đạo?
Nam
Tuyền đáp:
-
Tâm bình thường là đạo.
Triệu
Châu hỏi:
-
Lại có thể nhằm tiến đến chăng?
Nam
Tuyền đáp:
-
Nghĩ nhằm tiến đến là trái.
Triệu
Châu hỏi:
-
Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?
Nam
Tuyền đáp:
-
Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu
thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng rang đâu thể gắng
nói phải quấy.
Ngay
đó sư ngộ.
Mọi
người tu, ai cũng nghĩ mình phải thấy (ngộ) được đạo, và nghĩ rằng đạo là cái
gì cao siêu ở ngoài mình. Triệu Châu cũng có tâm niệm như chúng ta, khi được
Ngài Nam Tuyền trả lời "tâm bình thường là đạo", sư chưa đủ sức tin.
Vậy, tâm bình thường là tâm nào? Tâm nhớ chuyện năm xưa nghĩ chuyện năm tới có
phải là tâm bình thường không? Vừa dấy niệm là động, mà động thì bất bình thường.
Tâm bình thường là tâm lặng lẽ sáng suốt, thấy biết rõ ràng, như mặt nước phẳng
lặng không gợn sóng. Ngài Nam Tuyền chỉ thẳng: "tâm bình thường là đạo",
qua lời chỉ thẳng mà Triệu Châu chưa nhận ra nên hỏi "Lại có thể nhằm tiến
đến chăng?". Sư nghĩ tiến để đạt đạo, song, nghĩ tiến đến là bất bình thường,
mà bất bình thường thì không phải đạo. Vì vậy, Ngài Nam Tuyền nói: "Nghĩ
nhằm tiến đến là trái". Vừa nghĩ tiến đến là động, mà động là bất bình thường
nên trái đạo. Nhưng Triệu Châu cũng chưa nhận, bèn hỏi thêm: "Khi chẳng
nghĩ làm sao biết là đạo?" Sư cho đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà biết,
nay không cho suy nghĩ thì làm sao biết đó là đạo? Ngài Nam Tuyền bảo: "Đạo
chẳng thuộc biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký, nếu thật
đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang, rỗng rang đâu thể gắng nói
phải quấy". Nghĩa là tâm lặng lẽ sáng suốt đó là đạo, vừa dấy niệm muốn biết
nó là vọng giác, còn ngu ngơ không biết gì là vô ký, cả hai đều sai. Nếu thực đạt
đạo, tức là nhận ra cái lặng lẽ chân thật thì không còn nghi ngờ gì cả, lúc đó
tâm rỗng rang thênh thang, không thể nói là phải hay quấy. Vừa nói phải quấy là
có niệm hai bên thì trái đạo. Ngay đó Triệu Châu ngộ được "Tâm bình thường
là đạo". Tôi đã nói trắng ra quý vị có nhận được không?
Tôi
dẫn thêm một Thiền sư khác, Sùng Tín con nhà bán bánh bao, ở trước cổng chùa. Mỗi
ngày (sư) đem ít cái bánh cúng dường thiền sư Đạo Ngộ. Đạo Ngộ ăn xong thường để
lại một cái bánh bảo:
-
Ta cho ngươi ăn để ân huệ cho con cháu.
Một
hôm sư tự nghĩ: "Bánh là ta đem đến, cớ sao Hòa Thượng lại cho ngược lại
ta? Biết đâu không có ý chỉ. Sư bèn đến hỏi Đạo Ngộ.
Đạo
Ngộ bảo:
-
Bánh của ông đem đến, ta cho lại ông có lỗi gì?
Sư
nghe lời này, hiểu được thâm ý, liền xin xuất gia. Đạo Ngộ bảo:
-
Ngươi trước sùng phước thiện, nay tin lời ta, có thể gọi là Sùng Tín.
Từ
đây, sư hầu hạ luôn bên thầy, một hôm sư thưa:
-
Từ ngày con vào đây đến nay, chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu.
Đạo
Ngộ bảo:
-
Từ ngày ngươi vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.
Sùng
Tín hỏi:
-
Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?
Đạo
Ngộ bảo:
-
Ngươi dâng trà lên ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến ta vì ngươi mà nhận,
ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?
Sư
cúi đầu im lặng giây lâu, Đạo Ngộ bảo:
-
Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay
câu nói đó, sư khai ngộ. Lại hỏi thêm:
-
Làm sao gìn giữ?
Đạo
Ngộ đáp:
-
Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có thánh giải
khác.
Khi
thị giả dâng chung trà, Thầy đưa tay nhận chung trà, lúc đó có suy nghĩ gì
không? Thầy đón nhận chung trà mà không có một niệm suy nghĩ, nhưng không phải
là không "biết". Khi thị giả dọn cơm xá mời, thì Thầy bước tới ngồi
và cầm đủa ăn, lúc đó thế nào? Ngồi ăn cơm Thầy cũng không suy nghĩ. Khi thị giả
xá chào lui ra thì Thầy gật đầu, lúc gật đầu Thầy cũng không suy nghĩ. Như vậy,
trong những động tác hằng ngày mà chúng ta không khởi một niệm nghĩ suy, đó là
tâm yếu. Tâm yếu hiện hữu rõ ràng trong mọi hành động, nếu nhận được chỗ đó thì
chỗ nào không chỉ không dạy tâm yếu? Vậy, tâm yếu mà Đạo Ngộ chỉ đây có khác với
tâm bình thường mà Ngài Nam Tuyền chỉ ở trước không? Tuy nhiên, ở đây đặc biệt
là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ về tâm yếu thì Đạo Ngộ chỉ thẳng: "Thấy
thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai". Trong những hành động bình thường,
ngay đó mà nhận ra cái chân thật sẵn có nơi mình, vừa khởi nghĩ nó liền bị che
khuất. Ngay khi đó Sư khai ngộ. Chúng ta thấy tâm yếu là gì rồi phải không? Và
khi ngộ rồi, muốn gìn giữ nó phải làm sao? Đó là vấn đề then chốt. Được Ngài Đạo
Ngộ dạy:
"Mặc
tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có thánh giải
khác". Mặc tánh tiêu dao ở đây không có nghĩa rỗi rảnh thân dạo chơi chỗ
này xứ nọ tùy hứng đờn ca, thổi sáo, ngâm vịnh... Người như thế là cuồng tăng
phóng túng. Ngài Đạo Ngộ dạy tùy tánh tiêu dao, chứ không phải tùy thân tiêu
dao, phải hiểu rõ chỗ này. Vậy, tánh tiêu dao là thế nào? Tánh thấy tánh
nghe... có sẵn nơi mỗi người vốn không động, không giới hạn; bởi không động,
không giới hạn nên nó rỗng rang thênh thang. Và vì thênh thang không động không
phiền cứ mặc nó, không kềm không giữ là mặc tánh tiêu dao. Lâu nay chúng ta tu
nghĩ là phải kềm giữ cho tâm thanh tịnh; nếu kềm giữ là trái với tự tánh rồi.
"Tùy duyên phóng khoáng" là duyên đến thì tùy duyên bất biến không vướng
không bận, không bị duyên trần làm phiền nhiễu. Sơ Tổ phái Trúc Lâm nói:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc san hề khốn tắc miên
Ở
trong cõi đời mà vui với đạo, tức là vui với tâm bình thường, rồi tùy duyên đói
thì ăn mệt thì ngủ. Tùy duyên phóng khoáng là trong cuộc sống bình thường đến
giờ ăn thì ăn, đến giờ làm việc thì làm việc, đến giờ ngủ thì ngủ... không có vọng
niệm làm bận lòng, tâm an nhiên thênh thang tự tại. Ví dụ quét chùa hay nhổ cỏ
mà tâm vẫn thênh thang rỗng rang không có một niệm dấy khởi đó là tùy duyên
phóng khoáng. Chớ không phải tùy duyên phóng khoáng là đói vào quán ăn, ăn nhậu
say sưa, mệt thì nằm ì ngoài đường phố mà ngủ, gặp nữ sắc cũng không kỵ, gặp ca
vũ cũng không chừa... Đó là cuồng tăng cuồng thiền, hiểu lầm hiểu loạn, không
đúng lẽ thật, làm cho người chê cười, làm cho người mất hết tín tâm. Những trọng
điểm này quý vị lưu ý để nắm vững mà tu, nếu hiểu lầm một chút thì họa. Tôi nhắc
lại, tánh giác nơi mỗi người vốn lặng lẽ thênh thang sáng suốt, hằng ngày sống
bình thường, đến giờ làm việc thì làm việc, đến giờ ăn thì ăn, đến giờ nghỉ thì
nghỉ... không khởi niệm, không kềm, không giữ, tuy nhiên, vẫn ở trong nề nếp đạo
đức. Đó là mặc tánh tiêu dao tùy duyên phóng khoáng, cũng như Ngài Nam Tuyền
người dâng trà thì tiếp trà, dâng cơm thì nhận cơm, xá chào thì gật đầu, buông
hết vọng tưởng điên đảo của phàm phu, đó là đạo. Thông thường, người tu hành
chưa hài lòng với nếp sống bình thường như đã nói mà mong có cái gì phi thường,
khác lạ của bậc Thánh, muốn thấy hào quang, muốn biết quá khứ vị lai... Đó là bệnh,
nên Ngài dạy "chỉ hết tâm phàm, chẳng có Thánh giải khác" khi vọng tưởng
điên đảo sạch rồi thì ngang đó là Thánh, chớ không có Thánh ở ngoài đến. Tức là
dừng được tình phàm, là vọng tưởng chủ của nghiệp là nhơn luân hồi sanh tử thì
giải thoát, vì không sanh không diệt nhưng hằng tri hằng giác không phải Thánh
là gì? Có nhiều người nghi sau khi vọng tưởng lặng hết thì còn cái gì? Chỉ cần
hết vọng tưởng thì tánh giác hiện tiền không cần thêm gì nữa cả. Nhưng chẳng mấy
người có đủ lòng tin.
Đa
số đều mong hết phiền não để có thêm cái gì khác, không ngờ hết tình phàm (vọng
tưởng) thì ngay đó là Thánh. Vì mầm sanh tử luân hồi hết thì đó là đạo là giải
thoát, là chỗ thiết yếu mà Ngài Đạo Ngộ đã chỉ dạy.
Ngài
Triệu Châu ngộ đạo nơi Ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ "tâm bình thường là đạo"
nên sau này Ngài cũng dạy như thế.
Có
vị tăng hỏi:
-
Thế nào là Phật?
Sư
bảo:
-
Ở trong điện.
-
Trong điện đâu phải bùn đất đắp thành tượng?
-
Phải.
-
Thế nào là Phật?
-
Ở trong điện.
-
Con mê muội xin thầy chỉ dạy.
-
Ăn cháo xong chưa?
-
Ăn cháo xong.
-
Rửa bát đi!
Tăng
nhơn đây đại ngộ.
Tăng
muốn biết "thế nào là Phật", được Ngài Triệu Châu chỉ "ở trong
điện". Ngài chỉ Phật tánh không rời thân năm uẩn (ở trong điện) thế mà
tăng không nhận ra, khởi tâm so lường. Phật ở trong điện được đắp bằng bùn đất,
chỉ là tượng vô tri để thờ, không phải là Phật mà tăng muốn biết. Ngài Triệu
Châu nói "phải" là Ngài xác định nơi thân năm uẩn có tánh giác chớ
không phải tượng Phật trên bàn. Thế mà tăng không hội lập lại câu hỏi "thế
nào là Phật?". Ngài vẫn đáp "ở trong điện". Tăng vẫn không hội,
bèn thưa: "Con mê muội xin thầy chỉ dạy". Ngài hỏi: "Aên cháo
chưa?" Tăng đáp: "Aên cháo xong". Ngài bảo: "rửa bát
đi". Tăng nhơn đây mơi đại ngộ. Vậy, tăng ngộ cái gì? Cái ngộ của vị tăng
này có khác với cái ngộ của Ngài Sùng Tín không? Ở trước, dâng trà thì tiếp,
dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì gật đầu, ở đây ăn cháo xong thì rửa bát. Có phải
thân thì tùy duyên sinh hoạt mà hành động, tuy nhiên tâm vẫn bình thường? Chư Tổ
chỉ dạy nhau là chỉ dạy cái mà chính mình đã nhận được từ nơi thầy là "Tâm
bình thường", song mỗi vị có mỗi thuật độc đáo riêng, người căn cơ thấp
kém khó mà biết được. Tại sao hỏi "ăn cháo chưa?" rồi bảo "rửa
bát đi" mà lại ngộ đạo, vậy đạo ở chỗ nào?
Sau,
thiền sư Hoàng Trí có làm tụng để ca ngợi chỗ này:
Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù
Như kim tham bảo tùng lâm khách
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô.
Dịch:
Cháo xong liền dạy rửa chén tô,
Bỗng nhiên tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm cũ
Hãy nói khoảng này có ngộ không?
Thật
là xuất cách, người vào đạo với tâm thao thức thiết tha cầu Phật, nên khi hỏi
"ăn cháo xong chưa?" Thưa "ăn cháo xong" bảo "rửa bát
đi", liền ngộ đạo. Nếu là người không thao thức thiết tha cầu Phật, dù có
dùng phương tiện thiện xảo thế mấy để chỉ, cũng vẫn là kẻ dung thường không thấy
được lý đạo. Aên cháo, rửa bát có phải là bình thường mặc tánh tiêu dao, tùy
duyên phóng khoáng không? Nếu thông đoạn trước đến đây chúng ta không thấy lạ.
Ngài
Động Sơn Thủ Sơ, khi còn là một Thiền khách, đến tham vấn nơi Ngài Vân Môn,
Ngài Vân Môn hỏi:
-
Ông vừa rời chỗ nào?
Thủ
Sơ thưa:
-
Rời Tra Độ.
Vân
Môn hỏi:
-
Mùa hạ rồi ở đâu?
Thủ
Sơ đáp:
-
Ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam.
Vân
Môn hỏi:
-
Rời nơi ấy lúc nào?
Thủ
Sơ đáp:
-
Ngày 25 tháng 8.
Vân
môn bảo:
-
Tha ông ba gậy, đến nhà tham thiền đi.
Được
hỏi, Thủ Sơ đáp một cách thật thà, không một chút điêu ngoa, tại sao Ngài Vân
Môn nói "tha ông ba gậy" rồi bảo xuống nhà thiền? Thủ Sơ có lỗi gì?
Thủ
Sơ thắc mắc, hôm sau đi thẳng vào thất Ngài Vân Môn thưa:
-
Hôm qua nhờ ơn Hòa Thượng tha ba gậy, con không biết lỗi tại chỗ nào?
Vân
Môn bảo:
-
Cái túi cơm! Giang Tây, Hồ Nam liền thế ấy!
Ngay
câu nói này sư đại ngộ.
Vân
Môn quở Thủ Sơ là cái túi cơm. Giang Tây là chỗ hoằng hóa của Mã Tổ, Hồ Nam là
chỗ hoằng hóa của Thạch Đầu. "Liền thế ấy" là sao?
Hỏi
"ở đâu", thưa "ở Tra Độ" hỏi "mùa hạ rồi ở đâu",
thưa "ở chùa Báo Aân tại Hồ Nam". Hỏi "rời nơi ấy lúc
nào?". Thưa "ngày 25 tháng 8". Sự việc ấy có phải là bình thường
không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng, không suy nghĩ không phải tâm bình thường là gì?
Ngài Vân Môn muốn làm dậy sóng nên nói "tha ông ba gậy". Thuật khai
ngộ của Ngài Vân Môn quá kỳ đặc, ngài nói "tha ông ba gậy" làm cho Thủ
Sơ băn khoăn thắc mắc không biết mình có lỗi ở chỗ nào, nên hôm sau Thủ Sơ đến
phương trượng hỏi, khi hỏi bị quở "cái túi cơm!" Ngài Vân Môn chê Thủ
Sơ không thông minh giống như cái túi cơm vậy. Mã Tổ (Giang Tây) Thạch Đầu (Hồ
Nam) cũng đều chỉ dạy cái bình thường ấy thôi. Ngay đó Thủ Sơ ngộ đạo. Qua câu
chuyện, không ai khỏi ngạc nhiên chỗ "tha ông ba gậy". Chính nhờ cái
thuật làm dậy sóng đó của Ngài Vân Môn mà Thủ Sơ mới nhận ra cái "chân thật
bình thường" sẵn có nơi chính mình. Các thiền sư đâu có dạy điều gì khác,
các Ngài chỉ thẳng cái chân thật cho chúng ta là trong mọi sinh hoạt không dấy
niệm nghĩ suy là đạo, là tâm bình thường, là Phật. Vậy, có người nào không có
cái đó? Ai cũng có mà không dám nhận! Sa di Cao hầu chuyện với Ngài Dược Sơn,
qua những câu đáp, Ngài biết đó là một sa di xuất cách, nên mới khoe với các đồ
đệ lớn như Vân Nham, Đạo Ngộ. Hai vị này tỏ vẻ chưa tin, nên Ngài mới hỏi lại
Sa di Cao:
-
Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?
Sư
thưa:
-
Nước con an ổn.
Dược
Sơn hỏi thêm:
-
Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?
Sư
đáp:
-
Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.
Dược
Sơn hỏi:
-
Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?
Sư
đáp:
-
Chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận.
Ngài
Dược Sơn nói: "Ta nghe ở Trường An (thủ đô nhà Đường) rất náo loạn, ngươi
có biết chăng? Sa di Cao trả lời "nước con an ổn". NGHE tiếng động
bên ngoài ồn ào là náo. THẤY kẻ qua người lại lộn xộn là loạn. Khi hỏi:
"Ta nghe Trường An náo loạn ngươi có biết chăng?" Ngài Dược Sơn muốn
hỏi Sa di Cao có thấy có nghe sự náo loạn bên ngoài không? Đó là cái bẩy dọ dẫm
coi sư đang chạy theo cảnh bên ngoài hay hằng sống với tánh thấy tánh nghe chân
thật của mình. Sa di Cao trả lời "nước con an ổn". Người qua lại xôn
xao mà tánh thấy của Sa di Cao không xôn xao; tiếng động ồn ào mà tánh nghe của
Sa Di Cao không ồn ào. Náo loạn là chuyện bên ngoài chớ tánh thấy tánh nghe của
sư không động không loạn. Sư trả lời như thế chứng tỏ rằng Sư hằng nhớ cái chẳng
động của mình mà không để tâm chạy theo ngoại trần. Nếu được hỏi "có nghe
náo loạn không?". Trả lời "có nghe náo loạn" là người đã để tâm
duyên theo cảnh vật bên ngoài mà quên cái không động hằng hiện hữu nơi chính
mình. Như vậy, để thấy người xưa muốn trắc nghiệm xem người tham học còn vọng
ra ngoại trần hay hằng sống với cái chân thật của chính mình, chỉ nêu câu hỏi,
qua câu trả lời thì biết người ấy thế nào. Qua câu trả lời của Sa di Cao, Dược
Sơn chấp nhận ngay. Tuy thế, Vân Nham và Đạo Ngộ vẫn chưa tin, ngài Dược Sơn mới
trắc nghiệm thêm: "Ngươi do xem kinh được hay do thưa hỏi được?". Sa
di Cao đáp: "Chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được". Nếu
trả lời do xem kinh hay do thầy chỉ bảo thì cái đó từ bên ngoài mà được. Tánh
thấy tánh nghe là cái chân thật có sẵn nơi mỗi người, đâu đợi xem kinh mới có
hay do thầy dạy mới được. Nên Sư trả lời "chẳng do xem kinh được cũng chẳng
do thưa hỏi được". Mới nghe qua như phủ nhận công ơn chỉ dạy của Thầy Tổ.
Nhưng lẽ thực là như vậy. Thầy Tổ chỉ là người khơi dậy đánh thức để chúng ta
xoay lại nhận ra cái chân thật đã có sẵn mà từ lâu nay chúng ta bỏ quên. Ngài
Dược Sơn hỏi tiếp: "có lắm người chẳng xem kinh chẳng thưa hỏi sao chẳng
được?". Để xác định lần nữa, Ngài Dược Sơn bẻ lại: "ông nói chẳng do
xem kinh chẳng do thưa hỏi mà được, vậy biết bao người không xem kinh không thưa
hỏi sao chẳng được?" Sư đáp: "Chẳng nói họ không được, chỉ vì không
chịu thừa nhận thôi". Ai cũng có sẵn cái tánh biết chân thật, mà vì không
chịu nhận nên coi như không được. Được hay không được là do biết thừa nhận hay
không thừa nhận; nếu biết thừa nhận thì tự tại giải thoát, còn không thừa nhận
thì chạy theo ngoại cảnh phiền não khổ đau đi mãi trong luân hồi sanh tử.
Để
kết thúc buổi nói chuyện hôm nay tôi dẫn chuyện ngài Tử Hồ bắt ăn trộm, chuyện
này rất lý thú nên tôi hay kể, mỗi lần kể là mỗi lần mới. Trong pháp hội của
ngài Tử Hồ có trên 500 tăng chúng. Một hôm, giữa đêm bỗng ngài la to:
-
Aên trộm, ăn trộm.
Chúng
kéo nhau chạy đến, ngài chụp ôm vị tăng đến đầu tiên nói:
-
Bắt được rồi, bắt được rồi.
Vị
Tăng bị bắt hoảng hốt thưa:
-
Dạ con, không phải, không phải.
Ngài
nói:
-
Phải, phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi.
Trong
pháp hội cả 500 người ai cũng có cái chân thật mà không dám nhận, buộc lòng
ngài phải dùng phương tiện kỳ đặc chụp ôm một vị tăng la to là ăn trộm. Tăng
đính chính: "Dạ con, chớ không phải ăn trộm". Ngài nói: "Phải,
phải, chỉ tại ông không dám nhận thôi". Tăng nói "Không phải" là
không phải ăn trộm. Ngài nói: "phải, phải" là chỉ cho mọi người ai
cũng có sẵn tánh giác chân thật. Trò nói "không phải", thầy nói
"phải, phải", nghe như cùng đối đáp nhau, nhưng ý hai bên thật là
khác xa muôn dặm. Hình ảnh thầy chụp trò nói là "ăn trộm", trò đính
chính: "dạ con, không phải ăn trộm". Thầy lại khẳng định: "phải,
phải, tại ngươi không dám nhận". Thật thủ thuật quá kỳ đặc nói lên lòng từ
bi đáo để bao giờ chúng ta quên được!
Chư
Tổ xưa dùng nhiều phương tiện kỳ đặc, để chỉ cho người học đạo nhận ra tánh
giác chân thật sẵn có mà từ lâu tự bỏ quên. Riêng tôi không có phương tiện thiện
xảo, nên mới dẫn chuyện của người xưa để nhắc cho qúy vị nhớ và nhận ra cái
chân thật của mình, hầu thoát ly sanh tử dứt khổ đau.
Qua
những câu chuyện mà tôi vừa dẫn giải, nếu qúy vị nhận được tánh giác chân thật
nơi chính mình, quý nó như hạt minh châu vô giá, thì lời dẫn giải của tôi hôm
nay là hữu ích, tức là tôi là kẻ có công. Nếu quý vị không nhận được hay nhận
được mà xem thường, cho rằng ai ai cũng có, thì có gì quan trọng rồi vẫn cứ sống
buông trôi theo dục lạc đi mãi trong luân hồi sanh tử thì tôi là kẻ có tội. Vì
muốn cho quý vị có đủ lòng tin mà tiến tu để trở thành người hữu dụng, nên tôi
không ngại rụng hết lông mày vì qúy vị mà chỉ thẳng.
Nguồn http://thuongchieu.net
---------------------------------------------------------------------------
BÌNH THƯỜNG THỊ ĐẠO
BÌNH tâm đối cảnh duyên nào động?
THƯỜNG lạc đâu cầu, tánh đã trong,
THỊ nhộn chẳng theo, người rõ trống.
ĐẠO mầu diệu dụng khuyến về không…
THƯỜNG lạc đâu cầu, tánh đã trong,
THỊ nhộn chẳng theo, người rõ trống.
ĐẠO mầu diệu dụng khuyến về không…
19/1/2019
Viên Minh
Viên Minh
Đình Diệm HTM KÍNH HỌA
BÌNH dạ trong đời tâm nỏ động
THƯỜNG nuôi hỷ xả ý hoài trong
THỊ bày vạn cảnh lòng yên tịnh
ĐẠO hiện hoa đài dụng sắc không
Hương Thềm Mây
GM.Nguyễn Đình Diệm – 18.01.2019
GM.Nguyễn Đình Diệm – 18.01.2019
Tâm Ân BÌNH THƯỜNG THỊ ĐẠO (Cẩn họa)
BÌNH lắng bao thời tâm khó động,
THƯỜNG hằng bổn tánh rõ đà trong.
THỊ cùng chơn pháp qui đều trống,
ĐẠO cả quảng truyền chỉ lối không.
19/1/2019
Tâm Ân
Tâm Ân
Nhật Lam Cảm họa Y ĐỀ
Tâm trải, tâm BÌNH, tâm bất động
Vô THƯỜNG ngộ lẽ, giữ thân trong
Xôn xao phố THỊ, nhìn như trống
Nẻo ĐẠO quay về một chữ không!
Vô THƯỜNG ngộ lẽ, giữ thân trong
Xôn xao phố THỊ, nhìn như trống
Nẻo ĐẠO quay về một chữ không!
N.Lam 19/01/2019
Như Huyễn Trần Cẩn họa Y ĐỀ
Tánh lặng, tâm BÌNH ngưng nghiệp động
Thế THƯỜNG lóng ngóng bởi chưa trong
Cõi THỊ thong dong thì mới trống
ĐẠO mầu chỉ dạy tất đều không.
Tánh lặng, tâm BÌNH ngưng nghiệp động
Thế THƯỜNG lóng ngóng bởi chưa trong
Cõi THỊ thong dong thì mới trống
ĐẠO mầu chỉ dạy tất đều không.
19/1/2019
Như Huyễn Trần
Như Quân Cảm họa Y ĐỀ
Đối cảnh tâm BÌNH duyên chẳng động
Vô THƯỜNG vạn pháp sẳn ngời trong
THỊ phi hai nẻo đều như trống
ĐẠO lý như nhiên ấy vốn không
Như Quân
Như Quân Cảm họa Y ĐỀ
BÌNH dân trước cảnh lòng không động
THƯỜNG giữ tâm mình sáng sạch trong
THỊ giác soi nhìn vào cõi trống
ĐẠO lành ắt sẽ đạt về không
Như Huyễn Trần
Như Quân Cảm họa Y ĐỀ
Đối cảnh tâm BÌNH duyên chẳng động
Vô THƯỜNG vạn pháp sẳn ngời trong
THỊ phi hai nẻo đều như trống
ĐẠO lý như nhiên ấy vốn không
Như Quân
Như Quân Cảm họa Y ĐỀ
BÌNH dân trước cảnh lòng không động
THƯỜNG giữ tâm mình sáng sạch trong
THỊ giác soi nhìn vào cõi trống
ĐẠO lành ắt sẽ đạt về không
Thanh Nguyen Van Cẩn họa: SẮC - KHÔNG.
BÌNH thản tâm tùy cơn gió động,
THƯỜNG lay tâm ý, phướng sáng trong!
THỊ phi để nắng vào nhà trống,
ĐẠO diệu nhiệm huyền với Sắc - Không!
TRỌNG NGUYỄN.
THƯỜNG lay tâm ý, phướng sáng trong!
THỊ phi để nắng vào nhà trống,
ĐẠO diệu nhiệm huyền với Sắc - Không!
TRỌNG NGUYỄN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét