Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

Ý NGHĨA RÕ RÀNG CỦA BÁT NHÃ TÂM KINH

                                           hue-tri-thien-su

Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một bộ kinh rất ngắn của Đại Thừa Phật giáo nhưng lại có ý nghĩa rất thâm sâu, rất cơ bản, nhằm phá thói quen chấp thật rất nặng nề của chúng sinh. Kinh này được các chùa tụng niệm rất thường xuyên, các thầy cúng đám ma, ngay cả ở nông thôn miền nam Việt Nam cũng tụng kinh này. Có thể nói kinh này rất quen thuộc với Phật tử, nhưng mọi người có hiểu rõ ràng tường tận ý nghĩa của nó không, thì không dám chắc. Bởi vì trong số những người hỏi pháp với thầy Duy Lực, đã có tu sĩ thừa nhận nghe tụng kinh hàng ngày nhưng không hiểu. Mặc dù kinh này đã được nhiều người dịch giải rất kỹ lưỡng, tôi vẫn muốn nêu lại ý nghĩa của kinh dưới cái nhìn rõ ràng của khoa học để người đọc dễ hiểu hơn. Tôi dựa vào quyển kinh nổi tiếng của Ngài Huyền Trang phiên dịch mà thầy Duy Lực đã lược giải, chia thành 8 đoạn .
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh 般若波羅密經 là quyển Tâm Kinh nhằm phá chấp thật để hiển hiện trí bát nhã của bờ bên kia (ba la mật) tức là bến bờ giác ngộ.
1/  觀自在菩薩,行深般若波羅蜜多時,照見五蘊皆空,度一切苦厄
QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT, HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỒ ÁCH
Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu phép quán Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức dùng trí bát nhã soi thấu bản thể của thế giới, thì thấy Ngũ Uẩn đều là không, nên giải thoát được tất cả mọi khổ nạn.
Bồ Tát Quán Tự Tại, danh hiệu Quán Tự Tại là chỉ Bồ Tát đã thấu suốt tánh Không của vạn vật, tức không còn bị cái gì ràng buộc, trạng thái đó gọi là hành thâm bát nhã ba la mật đa, trí tuệ thấu suốt bản thể vốn là không của vũ trụ vạn vật, nhìn thấy Ngũ Uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành Thức) đều là không, nên hóa giải tất cả mọi khổ nạn.
Toàn bộ Bát nhã Tâm kinh chỉ nhằm phá thói quen chấp thật. Hiểu được câu này rồi thì các câu sau trở nên dễ hiểu. Quan trọng, mấu chốt nhất là Sắc (vật chất). Hiểu được vật chất là gì thì sẽ hiểu được toàn bộ Bát nhã Tâm kinh, tất cả các câu sau đều là suy luận ra từ tánh không của vật chất và thế giới.
Sắc là vật chất có bản chất là ảo. Vật chất được cấu tạo bởi các hạt ảo là quark và electron. Ba hạt quark tạo ra hạt proton, ba hạt quark cấu tạo theo kiểu khác tạo ra hạt neutron. Proton và neutron tạo thành hạt nhân nguyên tử, kết hợp với electron tạo thành nguyên tử vật chất. Nguyên tử vật chất được kết nối với nhau bằng 4 lực cơ bản. Mỗi loại Lực được triển khai bằng một loại hạt tương tác, hút đẩy, hoặc thông tin. Các nhà vật lý tổng kết có 16 loại hạt ở cấp độ dưới nguyên tử tức nhỏ hơn nguyên tử (6 quarks, 6 leptons và 4 loại hạt tương tác- forces là photon, gluon, bosonW và bosonZ ). Trong thập niên 1960 Peter Higgs, nhà vật lý người Anh, nêu lý thuyết là phải có một loại hạt nữa đem lại khối lượng cho vật chất, vì nó chưa có tên nên người ta lấy ngay tên của Higgs để đặt tên cho hạt đó, cũng có người gọi là “hạt của Chúa” vì vai trò cực kỳ quan trọng của nó. Và ngày 4-7-2012, CERN (Centre Européenne pour la Recherche Nucléaire- Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Âu châu) thông báo đã khám phá ra loại hạt mới giống như hạt Higgs. Như vậy mô hình chuẩn của vật lý hiện nay có 17 hạt. Tất cả vũ trụ vạn vật, ngân hà tinh tú, sơn hà đại địa, nhà cửa xe cộ, vật dụng…gom lại chỉ có 4 loại hạt : Quark, Lepton (Electron), Higgs, Forces (lực).
higgs-mohinhchuan
Đặc điểm của vật ảo là chúng rất uyển chuyển, linh hoạt, rất dễ xử lý nếu biết cách. Chẳng hạn, một tấm ảnh hay một video clip là những vật ảo, chúng có thể được gởi đi dễ dàng và chính xác tới bất cứ một nơi xa xôi nào trên thế giới nhờ vào hệ thống internet và nhờ vào sóng tương tác wifi hoặc 3G, 4G. Ví dụ, dù bạn đang đứng ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, miễn là trong tay bạn có một điện thoại cao cấp (smartphone hoặc iPhone) và nơi đó có sóng wifi hoặc 3G/4G mà bạn có thể kết nối, thì bạn có thể đọc được bài này và nghe xem được các bài hát dưới đây về Bát nhã Tâm kinh
Vật chất trong cuộc sống đời thường của chúng ta cũng là ảo, có những tính chất giống y hệt như thế giới ảo của máy vi tính, chỉ vì chúng ta không quen thấy hoặc chưa từng thấy nên không tin như vậy, thế nên chúng ta hết sức cố chấp, cho rằng vật chất là có thật, thế giới là có thật, chứ không biết rằng chúng ta đang nằm mơ giữa ban ngày. Vì vậy Phật Thích Ca phải bày ra Bát nhã Tâm kinh để phá sự chấp thật đó. Để góp phần phá chấp thật, tôi xin trích một sự kiện có thật 100% xảy ra trong thời hiện đại, trích từ quyển sách Đông Phương Kỳ Nhân của tác giả Liêu Văn Vĩ. Nên nhớ rằng quyển sách này được nhà nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, một xứ sở tôn sùng chủ nghĩa duy vật, cho phép phát hành chính thức, xuất bản lần thứ nhất, tháng 05-1993 do Đại học Công nghiệp Trung Nam, tỉnh Hồ Nam xuất bản, nên không thể nói là bịa đặt được. Người ta đã phải đấu tranh với nhau rất nhiều, rất lâu, cuối cùng mới công nhận tính chất chân thật của đặc dị công năng mà ngày xưa gọi là thần thông.
HHQ-DiepTuLong copy
Hầu Hi Quý (bên phải) và Diệp Tử Long (thứ hai từ bên trái), thư ký riêng của Mao Trạch Đông
Khoảng giữa tháng 12-1988, tôi (Liêu Văn Vĩ) từ Bắc Kinh trở về, gặp gỡ Hầu Hi Quý tại Bảo Tháp Sơn. Lúc đó ông rất phong lưu, so với hồi mấy năm trước lúc tôi mới gặp phỏng vấn ông lần đầu tiên thì có khác, thường có các doanh nhân lớn viết thư cho ông, thường có các nhà chính trị hẹn gặp ông. Tôi và ông đã rất quen thân, nhưng đáng tiếc là Hầu Hi Quý trước sau chưa bao giờ hiển lộ cho tôi xem công phu “di chuyển” vật thể lớn, vật thể nặng (tức dùng ý niệm di chuyển). Lần hội kiến này, tôi dứt khoát yêu cầu ông làm việc này tại chỗ. Tôi nói tôi rất muốn nhanh chóng vì ông viết một bài tường thuật dài, nhưng tôi nghe kể lại thì nhiều hơn chính mắt nhìn thấy, điều này thì không phù hợp với nguyên tắc mô tả nhân vật của tôi, tôi muốn chính mắt mình nhìn thấy vài sự kiện “biểu diễn” mà đã sớm được nghe kể.
“Tôi đối với vài ký giả các anh có chút không tin tưởng, tuy nhiên anh là một người tốt, nhưng anh thấy đấy, tuyên truyền thêm dầu vào dấm, người bị mốc meo lại là tôi.” Hầu Hi Quý trầm tư một lát, bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn trời xanh ngoài cửa sổ, “Trước đây có một số tuyên truyền sai lạc, Cục công an bèn treo danh hiệu của tôi, khiến họ cũng cho rằng tôi chỉ làm trò ảo thuật cao cấp…” ông đi đi lại lại trong phòng, sau đó chống nạnh đứng trước mặt tôi. “Nhưng mà, tôi cũng sẽ để cho anh thấy một cách xác thực, anh đã giúp đỡ tôi rất nhiều, do đó tôi tin tưởng anh, anh lại đây” Nói xong ông bước nhanh về phòng ngủ của mình.
Tôi đi theo, Hầu Hi Quý thuận tay đóng cửa, vì phòng khách của ông vẫn còn có khách đến thăm. Đó là một phòng nhỏ chỉ khoảng 10 mét vuông, bên phải cửa vào có hai cái ghế ngồi, đối diện với cửa vào là cửa sổ hai cánh, có treo rèm cửa sổ màu lục. Giường ở bên trái cửa vào, cạnh giường là tủ tổ hợp màu nhạt.
Ngoài ra thì hầu như không còn thứ gia dụng gì khác.
“Anh muốn xem cái gì ?” Hầu Hi Quý hỏi.
“Tôi, tôi muốn thấy anh biến ra tiền !”
“Không được, tiền không thể muốn được.” Hầu Hi Quý không tán thành.
“Không, tôi chỉ muốn thấy anh biến ra tiền, chứ không phải muốn anh lấy tiền xài.” Tôi cũng rất kiên trì. Hầu Hi Quý nhìn tôi một chút, cuối cùng cắn răng nói nhỏ : “Được, biến ra tiền.”
Lúc đó là đầu mùa đông, Hầu Hi Quý cũng vẫn mặc áo thun tay dài và quần đơn. Ông đến bên cửa sổ, đưa tay kéo rèm cửa sổ mỏng.
“Anh nhìn cho rõ nhé, trên cửa sổ có cái gì không ? trên tay tôi có cái gì không ?” ánh mắt của ông nhìn tôi, “trên người tôi có cái gì không, anh có thể đến sờ.”
Thế là tôi đến kiểm tra rèm cửa sổ, hiển nhiên chỉ có tấm rèm không mà thôi, cũng không liên kết với cái gì : hai tay cũng không, cách biệt tủ tổ hợp, chiếc giường và hai cái ghế đều ở rất xa (khoảng 2 mét), lúc cấp thiết cũng không thể với tới để lấy đồ, dĩ nhiên là không thể phối hợp, sờ túi quần và túi áo của ông cũng không có giấu gì trong đó.
Đợi tôi kiểm tra xong, Hầu Hi Quý tay phải kéo rèm cửa sổ, tay trái đưa ra phía sau cửa sổ, do bên trong và bên ngoài phòng cường độ ánh sáng khác nhau, bàn tay phía sau tấm rèm vẫn thấy rõ ràng.
“Chú ý nha, chú ý nha…”
Bỗng nhiên ông ngưng mâu trong chốc lát, bàn tay sau tấm rèm xoa xoa vận động, lập tức có tiếng giấy chạm vào nhau nghe “sột soạt”. Tôi đang muốn bước tới coi, Hầu Hi Quý đã vén rèm lên, từng tờ nối tiếp giấy bạc mệnh giá 10 nguyên nhân dân tệ, từ các ngón tay đang xoa vào nhau của bàn tay trái, bay xuống đất trước chân ông…
“Thấy rõ chưa ?” Hầu Hi Quý chau mày hỏi tôi.
Tôi không biết nên trả lời thế nào. Tôi thấy rõ tay ông không có gì, nhưng không thấy rõ tiền bay đến như thế nào, như thế là thấy rõ hay không thấy rõ ?
Không đợi tôi trả lời, Hầu Hi Quý cúi xuống gom những tờ tiền “Đại đoàn kết” sắp ngay ngắn, ước hai ba chục tờ, xếp chồng trên lòng bàn tay, đưa lên miệng thổi nhẹ một cái, các tờ tiền “Đại đoàn kết” liền tiêu tán, biến mất vô tung tích. “Tiền không thể dùng, tôi gởi trả lại, nếu không sư phụ có thể phạt tôi.” Ông nói.
Đây là lần thứ hai tôi nghe Hầu Hi Quý đề cập đến sư phụ của ông, tôi hỏi ông sư phụ là ai, ông nói là Nga Mi lão nhân, tôi hỏi nữa thì ông không trả lời. Vì vậy tôi đưa ra đề nghị thứ hai, “Biến tiền tôi đã tin rồi, đó là điều trên sách báo nói ý niệm di chuyển vật, ông có thể biến lại gói thuốc lá lần nữa không ?”
“Có thể, anh muốn loại nào ?”
“Vậy hãy mang lại thuốc lá Bạch Sa đi”. Tôi không hút thuốc, không biết hết tên các hiệu thuốc lá, vì từng mua Bạch Sa để chiêu đãi công chức của một Cục nào đó tới làm việc, vì vậy chỉ biết có Bạch Sa, do đó chọn thuốc lá Bạch Sa.
“Bạch Sa thì Bạch Sa.” Hầu Hi Quý gật đầu nhìn tôi, lại đi đến cửa sổ kéo rèm, “Anh lại coi xem dưới kia là cái gì ?”
Tôi lại gần xem, vì căn phòng rất cao, lại ở trên ngọn núi cao nhất của Bảo Tháp Sơn, từ cửa sổ nhìn ra, thấy tận nơi xa chỗ trời và đất tiếp giáp nhau. Nhìn xuống xem chỉ thấy những dãy nhà ngói đen, ngoài ra là các ngọn cây trụi lá hoặc cây có lá thường xanh. Nhìn để làm gì ? trừ phi là muốn tôi thấy rõ, một là ông không có trợ thủ, hai là không có cơ hội và khả năng để đánh tráo, tự nhiên là phải thừa nhận sự biến hóa là việc làm chân thật.
Đợi tôi quay đầu lại, Hầu Hi Quý mấp máy môi rồi kéo mạnh tấm rèm cửa sổ mỏng, một ánh chớp điện màu đen xuyên qua khung cửa sổ mà vào, rơi “bịch” một tiếng trước chân tôi. Tôi thừa nhận tôi có giật mình nảy lên một cái. Định thần nhìn kỹ, đúng là một gói Bạch Sa còn nguyên phong chưa mở. Hiển nhiên là một mặt nằm sát đất, còn ba mặt kia phơi bày lộ ra.  
90M-4
Thuốc lá Bạch Sa (白沙烟)
“Được rồi, nghỉ ngơi một chút, anh thích chuối, hãy ăn hai trái chuối rồi sẽ tiếp tục.” Nói xong, Hầu Hi Quý đưa tay ra ngoài cửa sổ nắm bắt một cái, trên tay liền xuất hiện đúng hai trái chuối không hơn không kém, đưa cho tôi.
Tôi không chút khách sáo, bèn lột vỏ ăn, ăn xong bèn đưa ra đề nghị thứ ba : “Tôi nghe nói anh có thể tùy ý làm cho thân thể biến thành cao lớn, trong công ty du lịch đã có không ít người từng xem qua, tôi cảm thấy có chút ly kỳ, vậy anh có thể biến cho tôi xem không ?”
Hầu Hi Quý cũng không trả lời, ông kéo cửa bước ra ngoài, một lát sau, ông trở lại cùng với một người từ trong phòng khách. Người đó họ Nhiếp tên Tổ Đức, từng công tác trong đoàn Hán Kịch tại thành phố Thừơng Đức, cũng từng gặp cha của Hầu Hi Quý, là một trong số rất đông những người sùng bái cha con họ Hầu. Ông đi Trường Sa chơi, đặc biệt đến thăm Hầu Hi Quý.
“Anh cứ sờ vào đỉnh đầu của hai chúng tôi.” Hầu Hi Quý bảo Nhiếp Tổ Đức cùng với ông dựa lưng vào nhau, đứng thẳng đầu kề nhau, muốn tôi dùng bàn tay đặt lên hai đỉnh đầu, ông hỏi “Ai cao ?”
Chiều cao của hai người xê xích không nhiều, nói một cách nghiêm nhặt, Nhiếp Tổ Đức cao hơn một hai phân.
“Được, hãy xem chân của chúng tôi, có ai xoạc chân không ?” Hầu Hi Quý nghiểm nhiên bố trí một phương thức trắc nghiệm nghiêm túc, “Anh nhìn rõ chưa ?”
Dĩ nhiên tôi không dám dễ dãi, tay đặt lên hai đỉnh đầu, mắt nhìn hai đôi chân. Bỗng nhiên tôi cảm thấy nửa bàn tay đặt trên đầu Hầu HI Quý bị đội lên, nghiêng đi, nghiêng hẳn đi, cuối cùng rời khỏi hẳn đầu của Nhiếp Tổ Đức. Đang lúc đó tôi xác định đôi chân của hai người không hề nhúc nhích, bèn nhìn lên hai cái đầu. Trời ơi, cái đầu to lớn của Hầu Hi Quý đã cao hơn đầu của Nhiếp Tổ Đức đến hơn 10 phân tây !
“Như vậy được chưa, ký giả ?” Hầu Hi Quý quay đầu hỏi tôi, không đợi tôi trả lời, bèn rời khỏi Nhiếp Tổ Đức.
“Thật là thần thoại ! thật là thần thoại !” tôi lắc đầu đưa ra nhận thức, đặt mông ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh cửa.  
Qua đoạn trích, chúng ta thấy Hầu Hi Quý có thể tùy ý dùng tâm niệm di chuyển tiền hay một gói thuốc lá từ nơi khác tới, hoặc có thể biến thân thể mình thành cao lớn, giống như chúng ta có thể phóng to, thu nhỏ một tấm ảnh. Sở dĩ làm được như vậy vì bản chất của vật chất cũng chỉ là ảo chứ không phải thật. Sự xuất hiện của vật chất tùy thuộc vào tâm thức. Điều này thì các khoa học gia hàng đầu thế giới cũng có lên tiếng xác nhận.
Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).
Qua ý kiến của 3 nhà khoa học hàng đầu của thế giới, ta thấy rằng ý thức góp phần quan trọng trong cấu thành của vật chất, tức là không thể có vật chất tồn tại độc lập ngoài ý thức. Ngoài ra một vài nhà khoa học nổi tiếng thế giới cũng cho rằng thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. David Bohm quan niệm rằng thực tại mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày chỉ là một loại ảo tưởng giống như một bức tranh toàn ảnh (hologram). Dường như thực tại có hai mức: một mức ở sâu hơn gọi là mức tiềm ẩn (cuộn lại) /implicate (enfolded) và một mức gọi là mứctường minh (mở ra) /explicate (unfolded). Một film toàn ảnh (hologram) và hình ảnh nó tạo ra trên màn hình là ví dụ của hai mức tiềm ẩn và tường minh. Cuộn film thuộc mức tiềm ẩn vì hình ảnh được mã hóa trong các dạng giao thoa chứa trong film còn hình ảnh chiếu ra thuộc mức tường minh vì các giao thoa mã hóa được mở ra (unfolded).
Theo David Bohm, sóng và hạt đều bị cuộn lại trong một thực thể lượng tử, chỉ có quá trình tương tác mới bộc lộ tường minh một khía cạnh nào đó, còn khía cạnh kia vẫn nằm tiềm ẩn. Vì danh từ toàn ảnh (holographic) có tính tĩnh tại (static) nên để mô tả những quá trình động (dynamic) cuộn lại và mở ra liên tục của thực tại nên David Bohm đưa ra danh từ toàn ảnh động (holomovement)
Bohm quan niệm rằng mọi vật trong vũ trụ đều là những phần tử của một continuum . Bohm cho rằng phân biệt thế giới sống (living) và không sống (nonliving) là điều vô nghĩa.
Vì mỗi phần của một bức toàn ảnh (hologram) đều chứa thông tin của toàn ảnh cho nên mỗi bộ phận của vũ trụ đều chứa thông tin của toàn vũ trụ. Điều đó có nghĩa là nếu biết cách tiếp cận thì chúng ta có thể tìm thấy thiên hà Tiên nữ (Andromeda) trong móng ngón tay bàn tay trái.
Đoạn video sau cho chúng ta một cái nhìn cụ thể hơn về việc electrons tạo ra thực tại vật chất của thế giới như thế nào.
Trong video trên, cái món súp lượng tử mà nhà vật lý Nick Herbert nói khi không có ai nhìn, PG gọi là vô thủy vô minh, nó chỉ là một cấu trúc ảo không có thật nhưng vẫn có cấu trúc rõ ràng mà Heisenberg gọi là tiềm thể. Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người phát minh ra nguyên lý bất định _không thể đồng thời xác định vị trí và vận tốc hay động lượng của một hạt, ví dụ electron) nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).
Đó cũng là tánh Không của PG. Nhưng khi người quan sát nhìn và đo đạc nó tức  là khởi lên nhất niệm vô minh, thì món súp lượng tử đó biến thành vật chất, thành thân tứ đại, thành nhà cửa xe cộ…mà 6 giác quan của ông đều cảm thấy là rất thật. Chính vì vậy mà PG nói Tam giới duy tâm.
Craig Hogan thì nói rằng bản chất của vũ trụ là số (xem bài Vạn pháp duy thức có ý nghĩa gì ?) tức là vũ trụ mà chúng ta đang sống cũng là ảo, giống hệt như thế giới ảo của máy vi tính mà chúng ta đang vận dụng hàng ngày. Yếu tố quan trọng ở đây là thông tin : Từ kỹ thuật đến sinh học, vật lý, thông tin đóng vai trò quan trọng. Các protein không thể nào tổng hợp được nếu không có thông tin từ DNA. Nguyên lý toàn ảnh khẳng định rằng entropy của một khối lượng bình thường (không phải lỗ đen) cũng tỷ lệ với diện tích chứ không phải thể tích. Thể tích chỉ là ảo ảnh và vũ trụ thật sự là một hologram đẳng cấu (isomorphic) tức cấu tạo bằng những bit thông tin giống nhau, cùng một loại như nhau, cụ thể là 0 và 1, với thông tin được “ghi khắc” trên mặt biên.
Sau khi đã luận giải kỹ càng về Sắc (vật chất) có bản chất là ảo, là không, thì các thành phần còn lại của ngũ uẩn cũng có bản chất tương tự, điều đó là dễ hiểu nên không cần giải thích nhiều.
2/ 舍利子,色不異空、空不異色、色即是空、空即是色, 受想行識,亦復如是
XÁ LỢI TỬ ! SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, DIỆC PHỤC NHƯ THỊ :
Vật chất không khác cái không, cái không không khác vật chất, vật chất tức là không, không tức là vật chất. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng tương tự như vậy.   
Thọ (zh. 受, sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Cơ thể liên lạc tiếp xúc với bên ngoài bằng Lục căn. Đối tượng của lục căn là Lục trần. Lục căn tiếp xúc với Lục trần sinh ra Lục thức bao gồm các cảm giác của thân xác và ý thức, do bộ não tổng hợp điều phối.
 Tưởng (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), là hoạt động cao cấp của bộ não và ý thức, ngoài việc nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức cái ta đang hiện diện như Descartes đã tuyên bố (Je pense, donc je suis- tôi tư duy tức tôi hiện hữu). Tưởng còn đi xa hơn trong tư duy, lý luận, tư tưởng triết học, tôn giáo, khoa học, chính trị, xã hội, nhân văn, kinh tế…phân biệt, chọn lựa tốt xấu, đúng sai…
Hành (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là hành động, hoạt động, thể hiện ra trong đời sống, quyết định nên làm gì, không nên làm gì sau  những hoạt động tâm lí tư tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác, đuổi theo đam mê, dục lạc hoặc phát tâm tu hành hoặc làm một việc lớn nào đó trong đời (chí hướng) chọn lựa, hướng nghiệp v.v… Đối với pháp trần thì hành là chuyển động, luôn luôn chuyển động không ngừng, như electron chuyển động chung quanh hạt nhân, mặt trời luôn tỏa ánh sáng và bức xạ vào không gian, trái đất luôn chuyển động chung quanh mặt trời và tự xoay theo trục của nó, thái dương hệ chuyển động trong dải ngân hà, các thiên hà chuyển động tách rời nhau ra…
Thức (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), là tri thức, tri kiến, hiểu biết sau quá trình dài tích lũy kinh nghiệm, từ đó sinh ra chấp ngã (thấy cái ta là có thật), chấp pháp (coi vũ trụ vạn vật là có thật), thấy có thế giới hiện hữu, có vạn vật, có xã hội. Cái ý thức luôn duy trì bản ngã gọi là Mạt-na thức. Tất cả thông tin về bản ngã và tri kiến về thế giới, vũ trụ được chứa trong Tàng thức hay còn gọi là A-lại-da thức.
Đã hiểu rằng ngũ uẩn giai không thì ắt biết tất cả mọi sướng khổ, tai ách cũng chỉ là ảo tưởng chứ không phải thật, đó là sự giải thoát chắc chắn. Bản chất của vật chất là không, chỉ là áo hóa chứ không có tự tánh riêng biệt.
3/ 舍利子,是諸法空相,不生不滅、不垢不淨、不增不減。 是故空中無色、無受想行識、無眼耳鼻舌身意、無色聲香味觸法、 無眼界、乃至無意識界
XÁ LỢI TỬ! THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT, BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, VÔ NHÃN, NHĨ, TỶ, THIỆT, THÂN, Ý, VÔ SẮC THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP, VÔ NHÃN GIỚI NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI :
Này Xá Lợi Phất ! các pháp đều là hiển thị của tánh không : không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm; như vậy trong tánh không, không có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có thế giới của hình tướng, màu sắc (nhãn giới) cho đến không có thế giới của tư tưởng ý thức (ý thức giới).        
Vật chất đã không có thật, bản chất của vạn pháp đã là không thì tất cả mọi hình tướng của vũ trụ vạn vật, nhân sinh cũng chỉ là ảo, không có thật.
4/ 無無明、亦無無明盡、乃至無老死、亦無老­死盡
VÔ VÔ MINH, DIỆC VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHÍ VÔ LÃO TỬ, DIỆC VÔ LÃO TỬ TẬN :
Không có vô minh, cũng không có già chết nên cũng không có hết vô minh, hết già chết.
無苦集滅道  VÔ KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO :
Vì không có vô minh, không có già chết luân hồi sinh tử, nên cũng không có khổ, không có lý do hay nguyên nhân đau khổ, không có hết đau khổ, không con đường giải thoát : Khổ, Tập, Diệt, Đạo. 
無智亦無得、以無所得故。 菩提薩埵,依般若波羅蜜多故,心無罣礙; 無罣礙故, 無有恐怖
VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, DĨ VÔ SỞ ĐẮC CỐ , BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ, TÂM VÔ QUÁI NGẠI, VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ :
Không có trí, cũng không có đắc, vì không có sở đắc, Bồ Tát nương vào tánh Không mà Tâm không có gì trở ngại, vì không có trở ngại nên cũng không có gì lo sợ.
Đó là thoát khỏi mọi ràng buộc của Không gian, Thời gian, Số lượng, Sự Sự vô ngại. Tính chất vô quải ngại thấy rõ trong câu chuyện có thật sau đây :
Đó là một ngày tháng 12-1986, chuyện xảy ra tại nhà của Hầu Hi Quý ở Bảo Tháp Sơn, thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. 
Trong số cử tọa có một nhân viên ngân hàng đã thấy hết tất cả, cảm thấy công năng đặc dị quá thần diệu, bỗng nảy sinh một chủ ý.
“Hầu thần tiên à, kho vàng của ngân hàng chúng tôi toàn là tiền, ông có thể biến lấy về, thế mới hay. Nhưng mà chỗ đó tường xi măng dày cả xích (khoảng 3 tấc tây- dm), phải qua vài cái cửa có vài ổ khóa, chỉ sợ không dễ dàng.”
“Anh không tiếc mạng hả ? Tiền trong kho vàng, biến lấy ra được hay sao ? Tôi cho rằng nếu có lấy được cũng có vấn đề.” Hầu Hi Quý trừng mắt nhướng mày, xua xua bàn tay to lớn.
Nhưng mọi người đâu có khẳng định như vậy, đó vừa là việc không thể làm được, nhưng họ lại vừa phát sinh ý muốn thấy Hầu Hi Quý hiển lộ công phu, bọn họ nhiều miệng cùng lời : mọi người ở đây làm chứng, biến lấy ra rồi biến trả về chỗ cũ, không động chạm tiền của quốc gia, Hầu Hi Quý đừng quá lo lắng.  
“Nếu cương quyết muốn tôi biến” Hầu Hi Quý trầm tư một chút, bắt đầu đi vào trong phòng, vừa đi vừa nói “vậy thì vào trong phòng biến.”
Mọi người cùng nhau theo ông vào trong phòng. Chỉ thấy Hầu Hi Quý kéo chiếc khăn trải gối trên giường, đưa hai tay vào bên dưới chiếc khăn, ngưng thần trong chốc lát, phía dưới khăn trải gối bỗng phát ra tiếng “sột soạt”, Hầu Hi Quý dỡ chiếc khăn trải gối lên, để lộ ra một khối tiền nhân dân tệ, mỗi xấp là 100 tờ mệnh giá 10 nguyên, cộng chung là một vạn nguyên ! Mọi người quá đỗi kinh ngạc vì đây không phải là vấn đề nhỏ, người nhân viên công tác tại ngân hàng hoảng quá, tay chân lập cập, luôn miệng tự nói “phi thường… … thật là phi thường…”
Hầu Hi Quý thấy mọi người hoảng loạn như thế, tằng hắng trong cổ họng, nghiêm túc nhận thức rằng “Đây là tiền của quốc gia, không thể để lâu, tôi phải đưa trở về.” Nói xong ông tự mình xếp tiền thành một chồng, mang ra ngoài bậc thềm, sau đó đứng thẳng người, miệng niệm chú, kế đó hét lên một tiếng “đi”, đống tiền nhân dân tệ trong sát-na bỗng biến mất…
Tiền để trong kho bạc ngân hàng, tường dày chắc chắn, nhiều lớp cửa, nhiều ổ khóa, nhưng Hầu Hi Quý không cần đi đến ngân hàng, cũng không cần mở cửa mà vẫn có thể di chuyển hàng đống tiền từ trong kho bạc nhà nước về nhà mình để biểu diễn cho mọi người thấy, rồi di chuyển trả về chỗ cũ chỉ bằng tâm niệm. Điều đó chứng tỏ tiền cũng chỉ là vật ảo, tường kho bạc cũng chỉ là vật ảo.
5/ 遠 離 顛倒 夢 想,究竟涅槃
VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG CỨU CÁNH NIẾT BÀN :
Xa rời cả điên đảo mộng tưởng và cứu cánh niết bàn.
Điên đảo mộng tưởng còn gọi là thế lưu bố tưởng, tức là tưởng tượng của Tâm sinh diệt, tưởng tượng ra vũ trụ vạn vật, tưởng tượng ra các pháp mà vẫn cho rằng có thật, tưởng rằng đó là sự thật khách quan ở ngoài ý thức. Đó là sai lầm lớn, không phải chỉ có người bình thường mới phạm phải mà cả những nhà đại bác học, đại khoa học gia, đại triết học vẫn phạm phải. Cứu cánh niết bàn cũng không phải là cảnh giới ở đâu xa lạ, mà chính là cảnh thế gian nhưng tâm không còn chấp trước, không bị sinh tử luân hồi ràng buộc nữa, không còn bị ràng buộc của không gian, thời gian và số lượng. Niết bàn chính là Tâm giác ngộ, Tâm như hư không vô sở hữu. Chứ không phải cứu cánh Niết bàn là một cõi giới riêng biệt có những tính chất như thường, lạc, ngã, tịnh, mà phái Tiểu thừa còn bảo lưu. Tất cả mọi cảnh giới đều là vọng tưởng vì vậy hành giả cũng không được chấp vào cứu cánh Niết bàn, do đó mới nói viễn ly.
6/  三世諸佛,依般若波羅蜜多故,得阿耨多羅三藐三菩提
TAM THẾ CHƯ PHẬT, Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ,  ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ :
Các vị Phật của ba đời (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai) dựa vào Trí Bát nhã mà chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Trên đây chỉ là nói theo thế lưu bố tưởng của thế gian mà thôi, chứ Phật cũng không có thật, Quá khứ, Hiện tại, Vị lai đều không có thật, vì Thời gian Không gian đều không có thật, chứng đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác cũng không có thật, vì tất cả các tướng đó đều chỉ có trong vô minh, tức là đều không có thật.
Vì thời gian là không có thật, nên sự phân chia thời gian ra thành quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ là sự tuỳ tiện của con người, chứ sự thật không phải như vậy. Quá khứ, hiện tại, tương lai cùng xuất hiện đồng thời, chỉ tại tuyệt đại đa số mọi người không nhìn thấy đồng thời, do khả năng hạn chế nên mới diễn dịch thành 3 thời. Có những sự kiện gì chứng tỏ điều đó ?
Pháp sư Huệ Viễn (334-416) đời Đông Tấn là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông, ông là đồng đạo với Đạo An, nhỏ hơn 20 tuổi. Em trai của ông, Huệ Trì (337…) cũng là một pháp sư rất nổi tiếng. Huệ Trì tính tình đạm bạc điềm tĩnh, có chí hướng cao xa. Lúc 14 tuổi bắt đầu đọc Thi Thư, học một biết mười, giỏi về văn sử, tinh thông Kinh, Luật, Luận của Phật giáo. Đạo An ở Tương Dương đề nghị Huệ Viễn đi về phía đông hoằng pháp. Huệ Trì cùng đi với anh. Đến Lư Sơn, hai anh em ở chung. Huệ Trì thân cao 8 xích , phong thái tuấn tú, thường mang giày cỏ, áo nạp phủ quá đầu gối. Số người theo học Phật pháp tại Lư Sơn có hơn 3000 người, không ai tuấn tú mẫn tiệp hơn Huệ Trì.
Sau Huệ Trì nghe nói ở Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên đất đai màu mỡ, nhân dân giàu có, muốn đến đó truyền pháp và xem phong cảnh núi Nga Mi. Năm Long An thứ ba đời Đông Tấn (công nguyên 399 CN), ông từ biệt Huệ Viễn đi Tứ Xuyên. Huệ Viễn khuyên em ở lại hết lời mà không được, bèn than rằng “Người đời đều thích đoàn tụ, riêng mình em thích phân ly, vì sao vậy ?” Ông đáp : “Nếu là người vướng mắc ở tình cảm, thích đoàn tụ thì không nên xuất gia. Hiện tại chúng ta đã cát ái xả dục mà cầu đạo thì chỉ nên kỳ vọng gặp nhau ở Tây phương cực lạc” Thế rồi anh em chia tay. Huệ Trì lên đường đi Tứ Xuyên một mình, từ đó không ai còn biết tung tích của ông. Kể từ lúc ông lên đường đi Tứ Xuyên vào năm 399 CN đến lúc người ta phát hiện ra ông trong bọng cây là năm 1113 CN, tức đã trải qua 714 năm. Câu chuyện như sau :
Bộ Sách Gia Thái Phổ Đăng Lục do Chính Thọ (Vân Môn tông) viết vào đời Nam Tống, quyển 22 có ghi lại một câu chuyện sau : Năm Chính Hòa thứ ba đời Tống Huy Tông (công nguyên 1113), tại Gia Châu Tứ Xuyên (nay là huyện Lạc Sơn nơi có tượng Phật điêu khắc vào vách núi đá cao nhất thế giới) quan địa phương có biểu tâu lên triều đình : Có cây cổ thụ bị gió thổi gãy, bên trong có một lão tăng đang nhập định, râu tóc che phủ thân thể, móng tay dài bao quanh người. Hoàng đế giáng chỉ dùng cáng khiêng lão tăng đó đưa về kinh đô (thời đó là Biện Kinh, kinh đô của nhà Bắc Tống, nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Do vị sư người Tây Thiên (Ấn Độ) là Tổng Trì Tam Tạng dùng chiếc khánh đồng đánh lên để làm cho lão tăng xuất định, mới biết đó là em trai của pháp sư Huệ Viễn ở Lư Sơn, tên là Huệ Trì, nhân đi du lãm núi Nga Mi, ngồi nhập định trong bọng cây.  Hoàng đế ra lệnh cho họa sĩ vẽ hình của lão tăng, và tự mình làm ba bài kệ.
Bộ Gia Thái Phổ Đăng Lục in vào năm Gia Thái thứ hai đời Nam Tống (CN 1202) cách lúc xảy ra sự việc trên (CN1113) chỉ có 89 năm, sự việc còn có thể khảo cứu và đáng tin cậy. Mặt khác 5 Bộ sách  mà Bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên gom lại đều là Thiền sử, ghi chép những sự việc có thật, người thật, việc thật.  Ngoài ra ba bài kệ của Tống Huy Tông vẫn còn là chứng tích.
Phật giáo Trung Hoa có ghi nhận một vị sư ngừơi Ấn Độ, Ngài Trí Dược Tam Tạng 智葯三藏đã đến Quảng Châu Trung Quốc bằng đường biển vào năm 502 đời Nam Bắc Triều (Quảng Châu thuộc Nam Triều 420-589), ban đầu ông đến chùa Pháp Tánh 法性寺 (chùa này do một vị tăng Ấn Độ khác là Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) đến Quảng Châu năm 435, xây dựng trong thời Lưu  Tống) trên đường đến Ngũ Đài Sơn, ông đi qua suối Tào Khê, thấy nước suối rất trong lành, ngon ngọt, phong cảnh giống núi Bảo Lâm bên Thiên Trúc, ông bảo đệ tử rằng “170 năm sau khi tôi tịch diệt sẽ có một vị đại thánh tăng đến đây hoằng pháp, khai ngộ cho rất nhiều người”, thế nên ông đã đề nghị quan Thiều Châu Mục là Hầu Kính Trung xây dựng chùa. Hầu Kính Trung tâu lên Lương Võ Đế và được sắc chỉ cho phép xây dựng,  năm 504 hoàn thành, Lương Võ Đế theo lời tâu, đặt tên chùa là Bảo Lâm Tự 宝林寺 (nay là chùa Nam Hoa cách Thiều Quan 25 km về phía đông nam, tên Nam Hoa Thiền Tự 南华禅寺 do Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận 趙匡胤 đặt sau khi đã trùng tu vào năm Khai Bảo nguyên niên 968).
Thời hiện đại cũng có bằng chứng. Trong thời gian diễn ra Giải Bóng đá Vô địch Thế giới (World Cup) 2010 tại Nam Phi. Chú bạch tuộc Paul đã làm cả thế giới kinh ngạc khi đã dự đoán trước, chính xác 100% kết quả của cả 8 trận đấu, trong đó 7 trận có đội tuyển Đức thi đấu, và trận cuối cùng là trận chung kết giữa hai đội tuyển Hà Lan và Tây Ban Nha. Paul đã dự đoán Tây Ban Nha thắng và kết quả diễn ra đúng như vậy, Tây Ban Nha đã đoạt cúp vô địch. Đối với nhận thức thông thường thì trận đấu Tây Ban Nha –Hà Lan chưa diễn ra, nhưng trong trí bát nhã thì trận đấu đó đã có rồi, kết quả đã an bài rồi, vấn đề chỉ là làm sao thấy được kết quả đó, các Bồ Tát có thần thông thì thấy được kết quả đó, tức thấy được vị lai chứ không phải đoán mò. Chính vì vậy mà Trí Dược Tam Tạng thấy được việc của 170 năm sau. Hay nói cách khác vị lai, hiện tại và quá khứ là đồng thời và đều không có thật, thời gian không gian số lượng đều không có thật.

Flag_of_Spain

Quốc kỳ Tây Ban Nha
Netherlands_Flag
Quốc kỳ Hà Lan
Bạch tuộc Paul đã chọn Tây Ban Nha là đội chiến thắng, cuộc chọn lựa diễn ra vào ngày 9-7-2010, hai ngày trước khi trận chung kết Hà Lan -Tây Ban Nha diễn ra vào ngày 11-7-2010 với kết quả 1-0 nghiêng về đội Tây Ban Nha.
Tại sao có những chuyện kỳ dị lạ thường như thế ? Chính vì bản chất của thời gian là không có thật, quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ là sự phân biệt của tâm thức con người, chứ không phải có một không gian và thời gian tồn tại độc lập khách quan như Newton hay Einstein quan niệm. Các vị Bồ Tát có huệ nhãn hay linh vật như bạch tuộc Paul có thể nhận ra những sự kiện mà người đời cho là chưa xảy ra.
7/ 故知般若波羅蜜多,是大神咒、是大明咒、是無上咒、是無等等咒; 能除一切苦,真實不虛。
CỐ TRI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH CHÚ, THỊ VÔ THƯỢNG CHÚ, THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ, NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỒ. CHÂN THẬT BẤT HƯ :
Như vậy phải hiểu rằng trí bát nhã tức tánh không là tất cả các loại thần chú kỳ diệu, cao cấp nhất, có khả năng dứt trừ tất cả mọi khổ nạn, đó là điều chân thật.
Đó là điều đương nhiên, cái ta không thật, thế giới không thật thì mọi khổ nạn, tai ách cũng chỉ là ảo, là chiêm bao mà thôi.
8/ 故說般若波羅蜜多咒,即說咒曰: 揭諦揭諦 波羅揭諦 波羅僧揭諦 菩提薩婆訶
CỐ THUYẾT BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CHÚ, TỨC THUYẾT CHÚ VIẾT: YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA.
Như vậy nói về chú Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng tức là nói lời chú : (chỉ phiên âm tiếng Phạn)
 gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!
(Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, đến bờ giác ngộ)
Ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh là rất rõ ràng và đúng như thật, nhưng sự thật đó không thể nghĩ bàn, rất khó hội nhập vì tuyệt đại đa số chúng sinh đã quá quen thuộc với sự mê lầm chấp thật, không dễ gì trong một đời một kiếp mà từ bỏ được thói quen tai hại đó, do đó phải kiên trì giữ giới tu hành bỏ dần tập khí (thói quen) lần theo tiến trình giới, định, huệ để đến bờ giác ngộ.
                                                                                               Truyền Bình
                                                           Nguồn https://duylucthien.wordpress.com

Không có nhận xét nào: