Thời Đức Phật Thích Ca tại thế, có rất nhiều vị vua chúa và các bậc vương tôn công tử đến thỉnh mời Ngài cho họ được cúng dường. Đó là vì Đức Phật từ bi, muốn chúng sinh có cơ hội được gieo trồng phúc điền.
Một hôm, Đức Phật nhận lời mời của Long vương A Nậu Đạt, đưa 500 đệ tử đến Long cung để nhận cúng dường.
Long cung của vua A Nậu Đạt vô cùng huy hoàng tráng lệ, đặc biệt phía trước cung điện có một cái ao nước được gọi là “ao A Nậu Đạt”.
Nước ao thanh tịnh trong mát, không khác gì nước Tám công đức trong ao Thất Bảo của thế giới Cực Lạc. Những người hữu duyên chỉ cần uống một giọt nước ao này đã có thể biết được nhiều kiếp trước của mình, nhìn thấu quá khứ và vị lai, và cũng có thể chứng nhập vào cảnh giới của Thánh nhân.
Các vị tỳ kheo cùng đi thọ cúng với Đức Phật hôm ấy cũng được uống nước ao A Nậu Đạt, và tất cả đều có khả năng biết về tiền kiếp của mình.
Thọ cúng dường xong, Đức Phật đứng bên bờ ao A Nậu Đạt bảo 500 đệ tử lần lượt kể lại chuyện kiếp xưa của mình. Lúc ấy, một vị tôn giả tên là La Bi Đề đã đứng dậy kể rằng:
“Bạch Thế Tôn, một trong những đời trước của con ở cõi Ta Bà này là vào thời đức Như Lai Câu Lưu Tôn đang giáo hóa ở thế gian, vì tất cả chúng sinh mà tuyên thuyết đủ các pháp vi diệu. Không lâu sau, khi đức Như Lai Câu Lưu Tôn nhập Niết bàn, tất cả các Phật tử đều vô cùng buồn thương.
Rất nhiều cư sĩ tại gia, vì muốn báo đáp ân sâu của Như Lai, đã phát tâm xây dựng toà bảo tháp 7 tầng và một ngôi chùa lớn để thờ phụng thánh tượng của Như Lai, cũng là để các vị tỳ kheo xuất gia có được nơi trú ngụ. Do đó, mỗi ngày các cư sĩ đều hội họp về kế hoạch xây cất công trình vĩ đại này.
Lúc ấy con sống trong một thôn làng gần đó, thấy họ thành tâm xây chùa lập tháp như thế, trong tâm con khởi lên một niệm vô minh phiền não. Con không những không tán thán công đức của họ mà còn ganh tỵ với họ nữa. Niệm ác trong tâm đã manh nha thì miệng không ngừng nói những lời ác độc, mắng họ ngu si, phỉ báng công đức của họ. Vì lẽ đó nghiệp tội đã định, khổ báo đã hình thành.
Đến khi qua đời, con phải đọa xuống địa ngục, bị ngọn lửa phiền não đốt cháy cả thân thể. Con kêu khóc và cầu cứu nhưng chẳng ai thương hại, chẳng ai giải cứu cho con. Nỗi đau ấy tưởng chừng như không sao chịu nổi! Có lẽ vì sự đau đớn thảm khốc như thế nên con sinh tâm hối hận. Nhờ một niệm hối cải ấy nên mọi khổ báo ở địa ngục đều kết thúc mau lẹ.
Tuy thoát khỏi cái khổ địa ngục, nhưng con phải sinh ra làm một người thấp lùn, xấu xí, ai thấy cũng ghét bỏ và xa lánh, thậm chí còn không tiếc lời chửi rủa. Con phải mang thân xấu xí như thế qua nhiều kiếp mới xả bỏ được.
Trong kiếp sống sau đó, con may mắn gặp đúng thời Như Lai Ca Diếp ra đời. Tuy thoát khỏi thân người khó coi, nhưng con lại sinh ra làm thân quạ. Trong các loài chim thì quạ là bị con người ghét bỏ nhất vì tiếng kêu của nó rất khó nghe, còn có rất nhiều người cho rằng chỗ nào có quạ thì chỗ ấy có chuyện chẳng lành. Vì thế, hễ thấy con là người ta phỉ nhổ, rủa mắng, bay tới đâu con cũng bị đối xử tàn nhẫn…
Nhưng vì con đã có tâm hối cải, biết được lỗi lầm của mình trong quá khứ, nên mỗi ngày con đều dừng lại ở con đường có Như Lai đi qua, bay lượn giữa các lùm cây, từ xa ngóng nhìn Như Lai và chúng đệ tử rất đông của Ngài. Thấy Như Lai du hành hóa độ ở đâu, con cũng bay theo Ngài để lắng nghe, con còn khuyên các loài chim khác lễ bái Như Lai nữa. Với tinh thần đó, con nguyện cầu Ngài cho phép con sám hối.
Không lâu sau, nhờ từ bi hồng đại của Như Lai, con lại được làm người. Trong kiếp này con không đọa lạc nữa vì đã gặp được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, con được xuất gia học đạo, chứng quả A-la-hán”.
Tôn giả La Bi Đề dứt lời, ai nấy cũng tâm đắc về bài học nhân quả ấy và thêm trân trọng cơ duyên được lắng nghe Phật Pháp nhiệm màu.
***
“Chớ thấy việc ác nhỏ mà làm, đừng thấy điều thiện nhỏ mà bỏ qua”. Làm người phải luôn giữ gìn miệng lưỡi, giữ gìn tâm ý, không để rơi vào điều ác. Một lời nói thiện, một niệm tâm thiện đều có công đức vô lượng. Tuy nhiên, một lời nói ác ý gây tổn thương người khác lại để lại nghiệp quả không ít. Bởi lời nói gió bay, nhưng nghiệp thì không bay.
Câu chuyện kiếp xưa của Tôn giả La Bi Đề thật xứng đáng là một bài học cho tất cả chúng ta.
Hà Vân sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét